Bài 1: Chính sách, khung pháp lý và thực tiễn thi hành pháp luật về tương trợ tư pháp trong thu hồi tài sản và phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam

04/01/2024 08:39

(kiemsat.vn)
Nhóm chuyên gia Ngô Thị Quỳnh Anh - Phạm Thị Trang - Khachik Harutyunyan vừa hoàn thiện Báo cáo "Nghiên cứu so sánh và đề xuất nâng cao hiệu quả công tác tương trợ tư pháp về thu hồi tài sản và phòng, chống rửa tiền nhằm thực hiện các khuyến nghị của Báo cáo chu kỳ 2 thực hiện Công ước của Liên Hợp quốc về phòng, chống tham nhũng (UNCAC)". Kiemsat online trân trọng gửi đến bạn đọc Bài 1 từ Báo cáo này.

Báo cáo “Nghiên cứu so sánh và đề xuất nâng cao hiệu quả công tác tương trợ tư pháp về thu hồi tài sản và phòng, chống rửa tiền nhằm thực hiện các khuyến nghị của Báo cáo chu kỳ 2 thực hiện Công ước của Liên Hợp quốc về phòng, chống tham nhũng (UNCAC)” được hoàn thành với sự hỗ trợ của Chương trình phát triển Liên Hợp quốc tại Việt Nam và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong khuôn khổ Dự án “Tăng cường thực hiện Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng tại Việt Nam” (Dự án UNCAC) do UNDP thực hiện và Cục Phòng chống ma túy và thực thi pháp luật quốc tế (INL), Bộ Ngoại giao Hoa kỳ tài trợ. Các kết quả và quan điểm thể hiện trong Báo cáo là của Nhóm tác giả, không nhất thiết đại diện cho quan điểm của Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc tại Việt Nam (UNDP), của INL cũng như của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

1. Chính sách về tương trợ tư pháp trong thu hồi tài sản và phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam

1.1. Chính sách tương trợ tư pháp trong thu hồi tài sản

Thu hồi tài sản, đặc biệt là tài sản từ tham nhũng được xác định là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Nghị quyết 04/NQ-TW ngày 21/8/2006 của Ban chấp hành trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí đã xác định cần phải chú trọng công tác thu hồi tài sản tham nhũng. Có thể nói đây là văn kiện đầu tiên và quan trọng về thu hồi tài sản tham nhũng ở Việt Nam. Tiếp theo tinh thần của Nghị quyết 04/NQ-TW, Nghị quyết trung ương 3 (Khoá X) và Kết luận Hội nghị Trung ương 5 khoá XI đểu nhấn mạnh công tác thu hồi tài sản tham nhũng là một trong những công tác cần chú trọng trong quá trình đấu tranh chống tham nhũng.

Đứng trước tình hình tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp; công tác phát hiện, xử lý tham nhũng chưa đáp ứng yêu cầu phòng, chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta, ngày 7/12/2015, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 50-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng. Tại Chỉ thị này, Bộ Chính trị đã yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện 8 nhiệm vụ, giải pháp trong đó đối với vấn đề thu hồi tài sản, Chỉ thị đã chỉ rõ “Trong xử lý tham nhũng phải xác minh rõ, chính xác tài sản của người có hành vi tham nhũng; áp dụng kịp thời các biện pháp thu hồi tối đa tài sản do tham nhũng mà có trong quá trình thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Xử lý nghiêm minh những cán bộ không tích cực thu hồi hoặc cản trở hoạt động thu hồi tài sản tham nhũng.

Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, đơn vị chức năng, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong phát hiện, điều tra, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng, đồng thời “Tăng cường hợp tác có hiệu quả với các quốc gia, tổ chức quốc tế trong việc xử lý tội phạm tham nhũng. Chủ động đàm phán, ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp với các nước; thực thi công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng theo đúng lộ trình, phù hợp điều kiện, quy định của pháp luật Việt Nam.”

Có thể thấy rằng, Chỉ thị số 50 đã xác định rõ: trong phòng, chống tham nhũng, công tác thu hồi tài sản cần phải được thực hiện triệt để nhằm khắc phục hậu quả của hành vi tham nhũng. Để làm được việc này, cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị có chức năng. Đối với những vụ việc có liên quan tới các quốc gia nước ngoài, các cơ quan có chức năng của Việt Nam cần tăng cường hợp tác để có thể xử lý tội phạm tham nhũng hiệu quả nhất, bao gồm cả việc thu hồi tài sản.

Tiếp nối tinh thần đó, ngày 02/6/2021, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị 04-CT/TW ngày 02/6/2021 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế. Đây là một Chỉ thị riêng về công tác thu hồi tài sản. Chỉ thị đã xác định rõ: trong thời gian qua, “Pháp luật về thu hồi tài sản tham nhũng từng bước được hoàn thiện; tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án dân sự các cấp được củng cố, kiện toàn; quá trình thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án về thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế được quan tâm chỉ đạo, xử lý kịp thời, hiệu quả hơn; tỉ lệ thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt được nâng lên…, góp phần quan trọng vào kết quả chung của công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng.

Tuy nhiên, cơ chế, chính sách, pháp luật trong công tác này còn bất cập. Năng lực, phẩm chất của một bộ phận cán bộ làm công tác thi hành án dân sự chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng và cơ quan thi hành án có lúc, có việc chưa chặt chẽ, hiệu quả chưa cao; hợp tác quốc tế trong thu hồi tài sản tham nhũng bị tẩu tán ra nước ngoài còn khó khăn, vướng mắc; tỉ lệ thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt còn thấp...”.

Để nâng cao hiệu quả, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế, tích cực góp phần vào công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, Chỉ thị 04 đã chỉ rõ một trong 7 nhiệm vụ, giải pháp cần phải được thực hiện trong thời gian tới là “Tăng cường hợp tác quốc tế trong thu hồi tài sản tham nhũng; chủ động phối hợp với các tổ chức quốc tế và các cơ quan có thẩm quyền ở nước ngoài để xác minh, truy tìm và xử lý tài sản do phạm tội mà có đang ở nước ngoài. Đẩy mạnh tham gia, ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp hình sự giữa Việt Nam với các nước, tạo cơ sở pháp lý, cơ chế phối hợp trong phòng, chống tham nhũng có yếu tố nước ngoài.” Có thể nói rằng, Việt Nam đã có những chủ trương, chính sách rõ ràng, nhất quán trong hợp tác quốc tế về thu hồi tài sản nói chung, trong đó bao gồm hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự. Theo đó, các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cần phải tăng cường hợp tác, chủ động phối hợp với các tổ chức quốc tế và cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài để thực hiện việc thu hồi tài sản tham nhũng. Các chính sách này là nền tảng, là cơ sở để hoàn thiện pháp luật về thu hồi tài sản nói chung và tương trợ tư pháp trong thu hồi tài sản nói riêng.

1.2. Chính sách về tương trợ tư pháp trong phòng, chống rửa tiền

Việt Nam xác định tham nhũng là một tội phạm nguồn quan trọng của tội rửa tiền và là một thách thức lớn. Trong thời gian qua, Việt Nam đã ban hành kế hoạch hành động quốc gia về phòng chống rửa tiền và tài trợ khủng bố ban hành kèm theo Quyết định số 2112/QĐ-TTg ngày 25/11/2014 của Thủ tướng Chính phủ giai đoạn 2015 - 2020; Quyết định số 941/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ số 941/QĐ-TTg ngày 05/8/2022 giai đoạn 2021-2025. Đối với hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền, mục tiêu của kế hoạch hành động quốc gia về phòng chống rửa tiền là:

- Nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử, thu hồi tài sản đối với tội rửa tiền, đặc biệt đối với các lĩnh vực có rủi ro cao trên cơ sở hợp tác trong và ngoài nước thông qua các cơ chế hợp tác chính thức và phi chính thức; thực hiện có hiệu quả quy trình điều tra, truy tố song song tội rửa tiền với tội phạm nguồn của tội rửa tiền; xây dựng, hoàn thiện quy trình/trình tự điều tra tài chính song song, truy tìm, ngăn chặn, tịch thu tài sản đối với các tội phạm nguồn có rủi ro cao;

- Tăng cường, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; đẩy mạnh đàm phán, ký kết các Biên bản ghi nhớ với các nước ngoài về phòng, chống rửa tiền; trao đổi, chia sẻ, cung cấp thông tin qua kênh chính thức và phi chính thức; gia nhập các tổ chức khu vực và quốc tế về phòng, chống rửa tiền.

Để thực hiện hai mục tiêu nêu trên, các nhiệm vụ, giải pháp được đề ra bao gồm:

- Tiếp tục tăng cường hoạt động điều tra, truy tố, xét xử tội rửa tiền, đặc biệt gắn với các lĩnh vực được xác định có rủi ro cao ở Việt Nam để có thể đưa ra nhiều nhất các vụ việc, thông tin số liệu cụ thể.

- Tăng cường hoạt động trao đổi, chia sẻ, cung cấp thông tin và hợp tác quốc tế chính thức và phi chính thức trong công tác phòng, chống rửa tiền.

- Đàm phán, ký kết các Biên bản ghi nhớ phối hợp, trao đổi thông tin với đối tác nước ngoài về phòng, chống rửa tiền, ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự; nghiên cứu, đề xuất việc gia nhập các tổ chức của khu vực và quốc tế về phòng, chống rửa tiền phù hợp với yêu cầu của Việt Nam.

- Nghiên cứu, rà soát Luật Tương trợ tư pháp theo Quyết định số 2114/QĐ-TTg ngày 16 tháng 12 năm 2021 ban hành Kế hoạch thực hiện Kết luận số 19-KL/TW của Bộ Chính trị và Đề án định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV nhằm cung cấp phạm vi hỗ trợ pháp lý đa phương trong việc điều tra, truy tố, xét xử có liên quan đến rửa tiền, tài trợ khủng bố, tội phạm nguồn gắn với rửa tiền và tài trợ khủng bố.

Song song với việc ban hành kế hoạch hành động quốc gia về phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố, Việt Nam cũng thành lập Ban chỉ đạo về phòng, chống rửa tiền (Quyết định số 581/QĐ-TTg ngày 12/5/2022 của Thủ tướng Chính phủ), là một tổ chức phối hợp liên ngành giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo và điều phối hoạt động giữa các Bộ, ngành trong công tác phòng, chống rửa tiền trên lãnh thổ Việt Nam. Ban chỉ đạo do một Phó thủ tướng Chính phủ làm trưởng ban; có 02 Phó trưởng ban là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và lãnh đạo Bộ Công an; các uỷ viên gồm lãnh đạo Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ, Bộ tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thông tin và Truyền thông, Thanh tra Chính phủ và Bộ Quốc phòng.

Từ phân tích trên có thể thấy rằng Việt Nam đã có sự chuẩn bị cho việc đấu tranh phòng, chống rửa tiền nói chung và tương trợ tư pháp trong phòng, chống rửa tiền nói riêng thông qua việc ban hành kế hoạch hành động quốc gia về phòng, chống rửa tiền đồng thời đã có thiết chế là Ban chỉ đạo phòng, chống rửa tiền nhằm đảm bảo tốt nhất việc hợp tác giữa các cơ quan trong nước để thực hiện những muc tiêu phòng, chống rửa tiền đã đặt ra.

2. Khung pháp lý về tương trợ tư pháp về hình sự

Quy định pháp luật về tương trợ tư pháp hình sự nói chung và tương trợ tư pháp hình sự trong thu hồi tài sản và phòng, chống rửa tiền của Việt Nam chủ yếu nằm trong các văn bản pháp luật như: Luật tương trợ tư pháp năm 2007; BLTTHS năm 2015; Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014; Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018 (sửa đổi); Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và các văn bản hướng dẫn thi hành.

2.1. Luật Tương trợ tư pháp năm 2007

Luật được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa 12 thông qua ngày 21/11/2007 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2008. Luật gồm 7 chương 72 điều. Trong đó, Điều 9 quy định về giao nhận tài liệu, đồ vật và tiền, Chương III (từ Điều 17 đến 31) quy định: phạm vi tương trợ tư pháp hình sự; các trường hợp từ chối hoặc hoãn tương trợ tư pháp hình sự; trình tự, thủ tục giải quyết các yêu cầu tương trợ của nước ngoài và của các cơ quan tiến hành tố tụng Việt Nam ủy thác tư pháp hình sự cho nước ngoài; quy định về trình tự, thủ tục giải quyết một số yêu cầu cụ thể: tống đạt giấy triệu tập người làm chứng, người giám định; dẫn giải người đang chấp hành hình phạt tù ra nước ngoài để cung cấp chứng cứ; cung cấp thông tin, chuyển giao vụ án, đồ vật tài liệu cho nước ngoài để tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự; giải quyết yêu cầu chuyển giao truy cứu trách nhiệm hình sự của nước ngoài đối với công dân Việt Nam đang sống tại Việt Nam; cung cấp thông tin và thực hiện yêu cầu tương trợ của nước ngoài liên quan đến việc điều tra người nước ngoài đang sống tại Việt Nam; chi phí thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự.

Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 đã đưa ra các quy định đáp ứng được phạm vi tương trợ tư pháp trong UNCAC gồm: Lấy chứng cứ hoặc lời khai của người có liên quan (Điều 17 Luật TTTP quy định về phạm vi tương trợ tư pháp hình sự giữa Việt Nam và nước ngoài bao gồm cả vấn đề về triệu tập người làm chứng, người giám định và thu thập, cung cấp chứng cứ); tống đạt tài liệu tư pháp được được quy định tại Điều 24 Luật TTTP; Cung cấp thông tin, chứng cứ và giám định quy định tại điểm e, khoản 2 Điều 19 Luật TTTP; Việc giao nhận đồ vật, tài liệu và tiền tại Điều 9 Luật TTTP; Chuyển giao đồ vật, vật chứng liên quan đến vụ án tại Điều 46 Luật TTTP.

Để thi hành Luật TTTP năm 2007, VKSNDTC, TANDTC, BCA, BTP và BNG Việt Nam đã ban hành Thông tư liên tịch số 02/2013/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BNG Hướng dẫn việc tiếp nhận, chuyển giao hồ sơ, vật chứng của vụ án để yêu cầu nước ngoài tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong đó, Thông tư đã quy định rõ các điều kiện, nguyên tắc, trình tự, thủ tục tiếp nhận, chuyển giao hồ sơ, vật chứng của vụ án do cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền của Việt Nam yêu cầu nước ngoài tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Khoản 1 Điều 28 Luật Tương trợ tư pháp.

Về nguyên tắc hợp tác quốc tế

Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự được thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Trường hợp Việt Nam chưa ký kết hoặc chưa gia nhập điều ước quốc tế có liên quan thì việc hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự được thực hiện theo nguyên tắc có đi có lại nhưng không trái pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật quốc tế và tập quán quốc tế (Điều 4 Luật TTTP 2007).

Hoạt động hợp tác thu hồi tài sản và phòng chống rửa tiền phải tuân theo các nguyên tắc của tương trợ tư pháp quốc tế trong giải quyết vụ án hình sự nói chung. Theo đó, hoạt động này phải tuân theo các nguyên tắc được ghi nhận trong nhiều các văn bản quy phạm pháp luật như Luật tương trợ tư pháp 2007; Luật Phòng, chống rửa tiền 2022. Trong đó, các nguyên tắc được ghi nhận tại Điều 4,  Luật TTTP năm 2007 giữ vai trò chỉ đạo, bao trùm trong suốt quá trình thực hiện các hoạt động TTTPHS.

Cơ quan trung ương trong tương trợ tư pháp hình sự

Theo quy định của các Hiệp định TTTPHS, cơ quan Trung ương TTTPHS của Việt Nam là Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Luật TTTP2007 không nêu rõ cơ quan trung ương trong hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự nhưng các điều khoản của Luật giao nhiệm vụ cho VKSNDTC như là cơ quan quản lý, theo dõi và thực hiện các hoạt động của cơ quan trung ương về TTTPHS. Ngoài ra, BLTTHS 2015 quy định VKSNDTC là Cơ quan trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong hoạt động TTTPHS (khoản 1 Điều 493).

Trách nhiệm của VKSNDTC trong Luật TTTP: (1) tiếp nhận, chuyển giao, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện; (2) xem xét, quyết định việc thực hiện; (3) từ chối hoặc hoãn thực hiện ủy thác TPHS.

Việc xác định đúng Cơ quan trung ương về vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn có ý nghĩa lớn trong việc đảm bảo ủy thác tư pháp hình sự được thực hiện nhanh chóng, hiệu quả. Như vậy, khi có các hoạt động UTTP để thu hồi tài sản đều thông qua kênh VKSNDTC để thực hiện. Khi tiếp nhận các yêu cầu TTTPHS do nước ngoài chuyển đến, VKSNDTC sẽ chuyển các yêu cầu đến cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền được xác định dựa trên nội dung của yêu cầu và quy định của BLTTHS. Do đó, cơ quan thực hiện ủy thác tư pháp hình sự bao gồm rất nhiều cơ quan từ trung ương đến cấp tỉnh, bao gồm: VKSNDTC và VKSND cấp tỉnh; TAND cấp tỉnh; Bộ Công an và Công an cấp tỉnh.

Phạm vi tương trợ tư pháp hình sự

Điều 17 Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 quy định phạm vi tương trợ tư pháp về hình sự giữa Việt Nam và nước ngoài bao gồm: (i) Tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu liên quan đến tương trợ tư pháp về hình sự; (ii) Triệu tập người làm chứng, người giám định; (iii) Thu thập, cung cấp chứng cứ; (iv) Truy cứu trách nhiệm hình sự; (v) Trao đổi thông tin; (vi) Các yêu cầu tương trợ tư pháp khác về hình sự.

Phạm vi TTTPHS không chỉ rõ nội dung tương trợ tư pháp trong thu hồi tài sản. Tuy nhiên, Việt Nam có thể vận dụng khoản 6 Điều 17 “Các yêu cầu tương trợ khác về hình sự” để thực hiện TTTPHS khi có yêu cầu.

Hiện tại, Việt Nam chưa có cơ chế công nhận và thực thi các lệnh tịch thu nước ngoài. Các điều khoản liên quan trong Bộ luật dân sự không áp dụng được cho việc thực thi các lệnh tịch thu trong các vụ án hình sự. Việc sửa đổi các quy định của Luật Tương trợ tư pháp hiện cũng đang được triển khai theo Công văn số 1083/VPCP-PL ngày 30/01/2018 thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ theo hướng tách các lĩnh vực TTTP trong luật TTTP thành từng luật chuyên biệt, trong đó có định hướng xây dựng luật TTTPHS. Toà án Nhân dân Tối cao đang xây dựng Dự thảo Nghị quyết công nhận và thực thi các lệnh và quyết định của toà án nước ngoài liên quan đến tịch thu tài sản không dựa trên bản án.

Yêu cầu TTTPHS liên quan đến thu hồi tài sản (xác định, truy tìm, tạm giữ và tịch thu) có thể được thực hiện theo điểm d, đ khoản 2 Điều 19 Luật Tương trợ tư pháp năm 2007. Như vậy, trong quá trình giải quyết vụ án liên quan đến ủy thác tư pháp để thu hồi tài sản, cơ quan có thẩm quyền Việt Nam có đủ cơ sở pháp lý yêu cầu hoặc thực hiện ủy thác tư pháp của nước ngoài.

Các trường hợp từ chối, hoãn tương trợ tư pháp

Việt Nam cam kết cung cấp một phạm vi TTTPHS rộng nhất có thể. Trong những trường hợp luật định, Việt Nam từ chối hoặc hoãn thực hiện UTTPHS. Các trường hợp từ chối, hoãn thực hiện cơ bản phủ hợp với thông lệ quốc tế và các cam kết của Việt Nam.

Điều 21 Luật TTTP 2007 quy định 05 trường hợp từ chối uỷ thác tư pháp về hình sự của nước ngoài, bao gồm các trường hợp sau:

(i)  Không phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, các quy định của pháp luật Việt Nam;

(ii) Gây phương hại đến chủ quyền, an ninh quốc gia;

(iii) Liên quan đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự một người về hành vi phạm tội mà người đó đã bị kết án, được tuyên không có tội hoặc được đại xá, đặc xá tại Việt Nam;

(iv) Liên quan đến hành vi phạm tội đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam;

(v) Liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật nhưng không cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam.

Uỷ thác tư pháp về hình sự có thể bị hoãn thực hiện tại Việt Nam nếu việc thực hiện ủy thác tư pháp cản trở quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án tại Việt Nam.

Khi quyết định từ chối hoặc hoãn thực hiện ủy thác tư pháp về hình sự theo quy định, Viện kiểm sát nhân dân tối cao thông báo cho nước yêu cầu biết lý do và các biện pháp cần áp dụng.

Hồ sơ ủy thác tư pháp

Theo quy định pháp luật Việt Nam, Hồ sơ ủy thác tư pháp về hình sự phải có các văn bản sau đây: văn bản của cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự; và văn bản ủy thác tư pháp về hình sự quy định tại Điều 19 của Luật tương trợ tư pháp.

Hồ sơ ủy thác tư pháp về hình sự được lập thành ba bộ theo quy định của Luật TTTP và phù hợp với pháp luật của nước được yêu cầu. Ngôn ngữ được sử dụng để lập hồ sơ theo quy định tại Điều 5, cụ thể: Trường hợp giữa Việt Nam và nước ngoài đã có điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp thì ngôn ngữ trong tương trợ tư pháp là ngôn ngữ được quy định trong điều ước quốc tế đó. Trường hợp giữa Việt Nam và nước ngoài chưa có điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp thì hồ sơ phải kèm theo bản dịch ra ngôn ngữ của nước được yêu cầu tương trợ tư pháp hoặc dịch ra một ngôn ngữ khác mà nước được yêu cầu chấp nhận.

Khi lập một Văn bản ủy thác tư pháp về hình sự phải có các nội dung sau đây: Tên, địa chỉ cơ quan ủy thác tư pháp; Tên, địa chỉ hoặc văn phòng chính của cơ quan được ủy thác tư pháp; Họ, tên, địa chỉ nơi thường trú hoặc nơi làm việc của cá nhân; tên đầy đủ, địa chỉ hoặc văn phòng chính của cơ quan, tổ chức có liên quan trực tiếp đến ủy thác tư pháp về hình sự; Nội dung công việc được ủy thác tư pháp về hình sự phải nêu rõ mục đích ủy thác; tóm tắt nội dung vụ án, các tình tiết liên quan, trích dẫn điều luật và hình phạt có thể được áp dụng; tiến độ điều tra, truy tố, xét xử; thời hạn thực hiện ủy thác.

Ngoài những nội dung cơ bản trên đây, trong ủy thác thu hồi tài sản, theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc của nước ngoài, văn bản ủy thác tư pháp về hình sự có thể có các nội dung sau đây:

+ Mô tả về tài sản và nơi có tài sản cần tìm; căn cứ để xác định tài sản do phạm tội mà có đang có tại nước yêu cầu và có thể thuộc quyền tài phán của nước yêu cầu; việc thực hiện bản án, quyết định của Tòa án đối với ủy thác về khám xét, thu giữ hoặc truy tìm, tịch thu tài sản do phạm tội mà có;

+ Biện pháp cần áp dụng đối với ủy thác tư pháp về hình sự có thể dẫn đến việc phát hiện hoặc thu hồi tài sản do phạm tội mà có.

Khoản 2, Điều 19, Luật TTTP quy định rằng yêu cầu tương trợ tư pháp có thể bao gồm thông tin có thể thực hiện việc phát hiện hoặc thu hồi tài sản, tùy từng trường hợp cụ thể và theo yêu cầu của các cơ quan có thẩm quyền. Chưa có quy định yêu cầu nội dung bổ sung hoặc hướng dẫn cụ thể hơn đối với các yêu cầu thu hồi tài sản.

Trường hợp thông tin nêu trong văn bản ủy thác tư pháp về hình sự không đủ để thực hiện ủy thác thì cơ quan có thẩm quyền của nước được yêu cầu có thể đề nghị bằng văn bản với nước yêu cầu cung cấp thông tin bổ sung và ấn định thời hạn cụ thể trả lời kết quả bổ sung (Khoản 3 Điều 19, Luật TTTP).

Trình tự, thủ tục thực hiện ủy thác tư pháp hình sự

- Thủ tục ủy thác tương trợ tư pháp về hình sự cho nước ngoài

Trong trường hợp giải quyết vụ án hình sự phát sinh những vấn đề mà cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền của Việt Nam không tự mình thực hiện được, cần ủy thác về hình sự cho nước ngoài thì cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền của Việt Nam phải lập hồ sơ ủy thác tư pháp theo mẫu quy định của pháp luật Việt Nam. Hồ sơ ủy thác tư pháp về hình sự phải được gửi cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Điều 22 Luật TTTP quy định thủ tục ủy thác tư pháp về hình sự cho nước ngoài:

+ Cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền của Việt Nam yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài tương trợ tư pháp về hình sự phải lập hồ sơ ủy thác tư pháp theo quy định tại Điều 18 của Luật TTTP và gửi cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

+ Trong thời hạn mười ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ ủy thác tư pháp về hình sự, Viện kiểm sát nhân dân tối cao vào sổ ủy thác tư pháp, kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ và chuyển cho cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước ngoài là thành viên hoặc thông qua kênh ngoại giao. Trường hợp hồ sơ không hợp lệ thì Viện kiểm sát nhân dân tối cao trả lại cho cơ quan đã lập hồ sơ và nêu rõ lý do.

+ Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thông báo kết quả thực hiện ủy thác tư pháp về hình sự, Viện kiểm sát nhân dân tối cao chuyển văn bản đó cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam đã gửi hồ sơ ủy thác tư pháp về hình sự.

- Thủ tục tiếp nhận và xử lý ủy thác tư pháp về hình sự của nước ngoài

Cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài muốn ủy thác tư pháp về hình sự cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thực hiện yêu cầu của mình thì phải có công hàm và hồ sơ ủy thác tư pháp. Mẫu công hàm và hồ sơ ủy thác tư pháp về hình sự được thực hiện theo quy định của nước yêu cầu hoặc theo quy định của điều ước quốc tế mà nước yêu cầu và Việt Nam là thành viên. Hồ sơ ủy thác tư pháp về hình sự của nước ngoài phải được gửi theo quy định tại điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước yêu cầu là thành viên hoặc gửi qua kênh ngoại giao trong trường hợp không có các điều ước quốc tế có liên quan. Hồ sơ ủy thác tư pháp của nước ngoài phải có đầy đủ các giấy tờ, tài liệu theo quy định của Luật TTTP năm 2007.

Việc tiếp nhận, xử lý ủy thác tư pháp về hình sự của nước ngoài được tiến hành theo trình tự, thủ tục được quy định tại Điều 23 của Luật TTTP:

+  Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ ủy thác tư pháp về hình sự của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải vào sổ ủy thác tư pháp, kiểm tra tính hợp lệ và chuyển hồ sơ cho cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền của Việt Nam thực hiện. Trường hợp hồ sơ không hợp lệ thì Viện kiểm sát nhân dân tối cao trả lại cho cơ quan có thẩm quyền của nước yêu cầu và nêu rõ lý do.

+ Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản của cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền của Việt Nam thông báo kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao chuyển văn bản đó cho cơ quan có thẩm quyền của nước yêu cầu theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước yêu cầu là thành viên hoặc thông qua kênh ngoại giao.

+ Trường hợp ủy thác tư pháp về hình sự không thực hiện được hoặc quá thời hạn mà nước ngoài yêu cầu hoặc cần bổ sung thông tin, tài liệu liên quan, cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền của Việt Nam phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao và nêu rõ lý do để Viện kiểm sát nhân dân tối cao thông báo cho cơ quan có thẩm quyền của nước yêu cầu.

Việt Nam chưa có quy định cụ thể về quy trình thực hiện UTTPHS liên quan đến thu hồi tài sản mà khi có yêu cầu sẽ được thực hiện theo thủ tục chung.

Các biện pháp áp dụng trong bảo quản vật chứng và tài sản đã được thu giữ để phục vụ hoạt động tịch thu nhằm thực hiện tương trợ tư pháp được thực hiện theo quy định của BLTTHS.

Thủ tục để ban hành lệnh tịch thu hoặc thực thi lệnh tịch thu tài sản có yếu tố nước ngoài trên cơ sở yêu cầu của nước ngoài không được quy định rõ ràng trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

Chi phí

Việt Nam quy định về chí phí TTTPHS tại Điều 31 Luật TTTP. Theo đó, chi phí thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự giữa Việt Nam với nước ngoài do nước yêu cầu chi trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác. Trong trường hợp Việt Nam chịu chi phí cho việc thực hiện ủy thác tư pháp về hình sự thì chi phí đó do ngân sách nhà nước bảo đảm. Hiện tại, chưa có quy định cụ thể của Việt Nam về chi phí liên quan trực tiếp đến thu hồi tài sản.

2.2. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

BLTTHS năm 2015 dành riêng Phần thứ tám với 2 chương 18 điều (Điều 491-508) quy định về hợp tác quốc tế trong tương trợ tư pháp về hình sự. Luật đã bổ sung một số quy định liên quan đến TTTPHS như: công nhận kết quả thực hiện ủy thác tư pháp là một nguồn chứng cứ (khoản 1 Điều 87); quy định VKSNDTC là Cơ quan trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong hoạt động TTTPHS (khoản 1 Điều 493); xử lý tài sản do phạm tội mà có (Điều 507); phối hợp điều tra, áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt (Điều 508).

Quy định của BLTTHS năm 2015 là căn cứ pháp lý quan trọng quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc tịch thu tài sản do phạm tội mà có. Cụ thể: Điều 106 quy định về xử lý vật chứng, theo đó quy định việc tịch thu, sung quỹ Nhà nước khi vật chứng đồng thời là tài sản tham nhũng. Điều 128 về Kê biên tài sản và Điều 129 về phong tỏa tài khoản của BLTTHS 2015 nhằm ngăn ngừa khả năng tẩu tán tài sản do phạm tội mà có.

Quy định về kê biên, phong toả tài sản

Về nguyên tắc, cơ quan nào trực tiếp giải quyết vụ án hình sự sẽ là cơ quan thực hiện UTTPHS về thu hồi tài sản như được quy định ở Chương III BLTTHS về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan điều tra, nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra, cơ quan VKSND (các Điều từ 34 đến Điều 43). Tuy nhiên, do tính chất đặc thù của các biện pháp cưỡng chế áp dụng đối với thu hồi tài sản, BLTTHS đã có quy định cụ thể về kê biên tài sản (Điều 128); phong tỏa tài khoản (Điều 129) đối với cá nhân và Kê biên tài sản (Điều 437), phong tỏa tài khoản (Điều 438) áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội.

Điều 128 quy định về kê biên tài sản

Điều kiện kê biên

Kê biên tài sản chỉ áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tiền hoặc có thể bị tịch thu tài sản hoặc để bảo đảm bồi thường thiệt hại.

Chỉ kê biên phần tài sản tương ứng với mức có thể bị phạt tiền, bị tịch thu hoặc phải bồi thường thiệt hại. Tài sản bị kê biên được giao cho chủ tài sản hoặc người quản lý hợp pháp hoặc người thân thích của họ bảo quản. Người được giao bảo quản mà có hành vi tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu, hủy hoại tài sản bị kê biên thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự.

Người có thẩm quyền kê biên

Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật TTHS, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền ra lệnh kê biên tài sản. Lệnh kê biên của những người được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật TTHS phải được thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp trước khi thi hành.

Thủ tục kê biên

Khi tiến hành kê biên tài sản phải có mặt những người: Bị can, bị cáo hoặc người đủ 18 tuổi trở lên trong gia đình hoặc người đại diện của bị can, bị cáo; Đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi có tài sản bị kê biên; Người chứng kiến.

Người tiến hành kê biên phải lập biên bản, ghi rõ tên và tình trạng từng tài sản bị kê biên. Biên bản được lập theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật TTHS, đọc cho những người có mặt nghe và cùng ký tên. Ý kiến, khiếu nại của những người quy định tại điểm a khoản này liên quan đến việc kê biên được ghi vào biên bản, có chữ ký xác nhận của họ và của người tiến hành kê biên.

Biên bản kê biên được lập thành bốn bản, trong đó một bản được giao ngay cho người được quy định tại điểm a khoản này sau khi kê biên xong, một bản giao ngay cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi có tài sản bị kê biên, một bản gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và một bản đưa vào hồ sơ vụ án.

Điều 129 BLTTHS quy định về Phong tỏa tài khoản

Điều kiện phong tỏa tài khoản

Phong tỏa tài khoản chỉ áp dụng đối với người bị buộc tội về tội mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tiền, bị tịch thu tài sản hoặc để bảo đảm bồi thường thiệt hại khi có căn cứ xác định người đó có tài khoản tại tổ chức tín dụng hoặc Kho bạc Nhà nước. Phong tỏa tài khoản cũng được áp dụng đối với tài khoản của người khác nếu có căn cứ cho rằng số tiền trong tài khoản đó liên quan đến hành vi phạm tội của người bị buộc tội.

Chỉ phong tỏa số tiền trong tài khoản tương ứng với mức có thể bị phạt tiền, bị tịch thu tài sản hoặc bồi thường thiệt hại. Người được giao thực hiện lệnh phong tỏa, quản lý tài khoản bị phong tỏa mà giải tỏa việc phong tỏa tài khoản thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự.

Người có thẩm quyền phong tỏa tài khoản

Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật TTHS, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền ra lệnh phong tỏa tài khoản. Lệnh phong tỏa tài khoản của những người được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật TTHS phải được thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp trước khi thi hành.

Thủ tục phong tỏa tài khoản

Khi tiến hành phong tỏa tài khoản, cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền phải giao quyết định phong tỏa tài khoản cho tổ chức tín dụng hoặc Kho bạc Nhà nước đang quản lý tài khoản của người bị buộc tội hoặc tài khoản của người khác có liên quan đến hành vi phạm tội của người bị buộc tội. Việc giao, nhận lệnh phong tỏa tài khoản phải được lập thành biên bản theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật TTHS.

Ngay sau khi nhận được lệnh phong tỏa tài khoản, tổ chức tín dụng hoặc Kho bạc Nhà nước đang quản lý tài khoản của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc tài khoản của người khác có liên quan đến hành vi phạm tội của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo phải thực hiện ngay việc phong tỏa tài khoản và lập biên bản về việc phong tỏa tài khoản.

Biên bản về việc phong tỏa tài khoản được lập thành năm bản, trong đó một bản được giao ngay cho người bị buộc tội, một bản giao cho người khác có liên quan đến người bị buộc tội, một bản gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp, một bản đưa vào hồ sơ vụ án, một bản lưu tại tổ chức tín dụng hoặc Kho bạc Nhà nước.

Đối với pháp nhân thương mại phạm tội, BLTTHS cũng quy định cụ thể về Kê biên tài sản tại Điều 437 và Phong tỏa tài khoản tại Điều 438

Quy định về Kê biên tài sản đối với pháp nhân thương mại phạm tội

Điều kiện kê biên tài sản: Kê biên tài sản áp dụng đối với pháp nhân bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tiền hoặc để bảo đảm bồi thường thiệt hại.

Chỉ kê biên phần tài sản tương ứng với mức có thể bị tịch thu, phạt tiền hoặc bồi thường thiệt hại. Tài sản bị kê biên được giao cho người đứng đầu pháp nhân có trách nhiệm bảo quản; nếu để xảy ra việc tiêu dùng, sử dụng trái phép, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu, hủy hoại tài sản bị kê biên thì người này phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.

Thủ tục kê biên tài sản

Khi kê biên tài sản của pháp nhân phải có mặt những người sau: Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân; Đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi pháp nhân có tài sản bị kê biên; Người chứng kiến.

Thẩm quyền, trình tự, thủ tục kê biên tài sản được thực hiện tương tự như trường hợp kê biên tài sản đối với cá nhân theo quy định tại Điều 128 của Bộ luật TTHS.

Quy định về phong tỏa tài khoản đối với pháp nhân thương mại phạm tội

Điều kiện phong tỏa tài khoản: Phong tỏa tài khoản áp dụng đối với pháp nhân bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tiền hoặc để bảo đảm bồi thường thiệt hại và có căn cứ xác định pháp nhân đó có tài khoản tại tổ chức tín dụng hoặc Kho bạc Nhà nước.

Phong tỏa tài khoản cũng được áp dụng đối với tài khoản của cá nhân, tổ chức khác nếu có căn cứ xác định số tiền trong tài khoản đó liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân. Chỉ phong tỏa số tiền trong tài khoản tương ứng với mức có thể phạt tiền hoặc bồi thường thiệt hại.

Thủ tục phong tỏa tài khoản: Cơ quan có thẩm quyền phong tỏa tài khoản phải giao quyết định phong tỏa tài khoản cho đại diện tổ chức tín dụng hoặc Kho bạc Nhà nước đang quản lý tài khoản của pháp nhân hoặc tài khoản của cá nhân, tổ chức khác liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân.

Thẩm quyền, trình tự, thủ tục phong tỏa tài khoản được thực hiện tương tự như trường hợp phong tỏa tài khoản đối với cá nhân phạm tội theo quy định tại Điều 129 của BLTTHS.

Điều 507 BLTTHS 2015 quy định các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam sẽ hợp tác với các cơ quan có thẩm quyền nước ngoài để truy tìm, kê biên, phong tỏa, tịch thu và xử lý các tài sản có nguồn gốc từ tội phạm để hỗ trợ điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.

Khoản 2 Điều 507 BLTTHS 2015 quy định rằng việc xử lý tài sản theo yêu cầu MLA phải tuân thủ luật pháp Việt Nam. Theo luật pháp Việt Nam, việc tịch thu phải trên cơ sở bản án hình sự có hiệu lực pháp luật của tòa án. Như vậy, Việt Nam không thể thực hiện các lệnh tịch thu không trên cơ sở kết án nhưng có thể cung cấp các hình thức hỗ trợ khác trong các trường hợp như vậy, ví dụ: truy tìm, phong tỏa tài sản vv…

Điều 507 BLTTHS 2015 quy định các cơ quan chức năng của Việt Nam sẽ hợp tác với các cơ quan có thẩm quyền nước ngoài trong việc truy tìm, tạm giữ, kê biên, phong tỏa, tịch thu, xử lý tài sản do phạm tội mà có để phục vụ yêu cầu điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Việc truy tìm, tạm giữ, kê biên, phong tỏa, tịch thu tài sản do phạm tội mà có tại Việt Nam được thực hiện theo quy định của BLTTHS.

Điều 508 BLTTHS 2015 cũng quy định cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam có thể hợp tác với cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài trong việc phối hợp điều tra hoặc áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Việc phối hợp điều tra hoặc áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt được thực hiện trên cơ sở điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc theo thoả thuận trong từng vụ việc cụ thể giữa cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam và cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài có liên quan. Các hoạt động phối hợp điều tra thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thực hiện theo quy định của BLTTHS và quy định khác của pháp luật Việt Nam có liên quan. Tuy nhiên, chưa có quy định trực tiếp về sự sắp xếp cụ thể để phối hợp điều tra hoặc áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.

Việt Nam chưa có quy định cụ thể về cơ chế quản lý và khi cần xử lý tài sản bị phong tỏa, bị tịch thu hoặc thu hồi để đáp ứng các yêu cầu TTTPHS. Việt Nam có một số cơ chế quản lý tài sản trong BLTTHS 2015. Những quy định này được áp dụng cho việc thực hiện tương trợ tư pháp liên quan đến thu hồi tài sản. Tuy nhiên, những điều này không tạo thành một khung quản lý tài sản toàn diện và mức độ các điều khoản này áp dụng trong bối cảnh các MLA là không rõ ràng.

Theo Điều 507 Khoản 3, tài sản có được thông qua phạm tội ở Việt Nam sẽ được xử lý theo thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc trên cơ sở từng trường hợp giữa cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam và cơ quan có thẩm quyền nước ngoài có thỏa thuận riêng.

Như vậy, Việt Nam có căn cứ pháp lý theo BLTTHS 2015, Luật Chống tham nhũng 2018 và các Hiệp định tương trợ tư pháp để xác định, phong tỏa, tịch thu và tạm giữ tài sản có được thông qua phạm tội theo yêu cầu MLA. Như vậy với những quy định hiện hành cho thấy Việt Nam đã tuân thủ một phần Điều 54 và 55 UNCAC.

2.3. Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017

BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, có hiệu lực thi hành từ 1/1/2018) quy định về tội phạm và hình phạt, làm cơ sở xem xét các yêu cầu TTTPHS. Dựa vào các quy định của Bộ luật này, các cơ quan có thẩm quyền xác định hành vi phạm tội được thực hiện ở nước ngoài có cấu thành tội phạm theo quy định trong BLHS của Việt Nam hay không (vấn đề bảo đảm nguyên tắc tội phạm kép) để thực hiện yêu cầu tương trợ và tiến hành các hoạt động thu hồi tài sản. Cụ thể:

Điều 45 BLHS quy định khái niệm và phạm vi về tịch thu tài sản trong phạm tội mà có “Tịch thu tài sản là tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của người bị kết án để nộp vào ngân sách nhà nước.

Tịch thu tài sản chỉ được áp dụng đối với người bị kết án về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma tuý, tham nhũng hoặc tội phạm khác do Bộ luật này quy định. Khi tịch thu toàn bộ tài sản vẫn để cho người bị kết án và gia đình họ có điều kiện sinh sống.”

Điều 324 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về tội rửa tiền, trong đó, các mức phạt được quy định riêng cho cá nhân và pháp nhân khi phạm tội.

2.4. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 mặc dù không quy định trực tiếp việc thu hồi tài sản tham nhũng, cũng chưa có quy định cụ thể về việc khởi kiện dân sự để trả lại tài sản tham nhũng, nhưng đã có một số quy định khác có liên quan và đáp ứng được một phần yêu cầu của Điều 53 UNCAC. Cụ thể, Điều 187 quy định về quyền khởi kiện các vụ án dân sự của các cơ quan, tổ chức nhằm bảo vệ quyền là lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước khi bị hành vi tham nhũng xâm phạm. Ngoài ra, BLTTDS cũng có quy định về thủ tục áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để ngăn chặn việc chuyển dịch bất hợp pháp tài sản (Điều 120, Điều 121, Điều 122, Điều 124 và Điều 126).

2.5. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014

Các căn cứ pháp lý khác được quy định trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố, kiểm sát tương trợ tư pháp hình sự tại Điều 32, Điều 33. Theo đó, Điều 32 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền công tố trong hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự, bao gồm: Quyết định việc chuyển yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự của nước ngoài cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền của Việt Nam để khởi tố, điều tra. Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài triệu tập người làm chứng, người giám định; thu thập, cung cấp chứng cứ, tài liệu; truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại các Điều 14, 16 và 18 của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự theo yêu cầu của nước ngoài. Và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác khi thực hành quyền công tố trong tương trợ tư pháp về hình sự theo quy định của BLTTHS và Luật TTTP năm 2007.

Khi kiểm sát hoạt động tương trợ tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn:  Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan, người tiến hành và người tham gia hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự. Thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị và nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát hoạt động tương trợ tư pháp theo quy định của pháp luật.

2.6. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 (sửa đổi)

Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 gồm 10 chương và 96 điều quy định về các vấn đề liên quan tới khái niệm, hành vi tham nhũng, trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức trong phòng, chống tham nhũng…Cụ thể, Luật quy định 12 hành vi tham nhũng trong khu vực nhà nước do người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước thực hiện(Khoản 1 Điều 2); 03 hành vi tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước do người có chức vụ, quyền hạn trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước thực hiện (Khoản 2 Điều 2);Khoản 1 Điều 17 quy định hoạt động thu hồi tài sản tham nhũng là một trong các tiêu chí đánh giá về công tác phòng, chống tham nhũng…Những quy định này cho thấy quyết tâm cao của Việt Nam trong việc đẩy lùi nạn tham nhũng và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc thu hồi tài sản tham nhũng. Ngoài ra, Luật Phòng, chống tham nhũng cũng dành cả chương VIII để quy định về hoạt động hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng. Cụ thể: Điều 89 quy định về nguyên tắc chung trong hợp tác quốc tế, theo đó, Nhà nước cam kết thực hiện các điều ước quốc tế về phòng, chống tham nhũng mà Việt Nam là thành viên dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và các bên cùng có lợi. Khoản 2 Điều 90 quy định về trách nhiệm thực hiện hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp trong phòng, chống tham nhũng được giao cho các cơ quan như Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Bộ Công an thực hiện trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan. Điều 91 quy định cụ thể về hoạt động hợp tác quốc tế về thu hồi tài sản tham nhũng. Theo đó, luật đã đưa ra quy định về việc hợp tác trong thu hồi tài sản tham nhũng giữa cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam với cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài trong kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, tịch thu hoặc thu hồi tài sản tham nhũng và trả lại tài sản đó cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp sẽ dựa trên các điều ước quốc tế Việt Nam là thành viên và các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Ngoài ra, luật cũng giao cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao là cơ quan trung ương về hợp tác quốc tế thu hồi tài sản tham nhũng trong tố tụng hình sự; tiếp nhận, xử lý yêu cầu tương trợ tư pháp hình sự của nước ngoài về thu hồi tài sản tham nhũng và đề nghị nước ngoài thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp hình sự về thu hồi tài sản tham nhũng của Việt Nam (Khoản 2 Điều 91).

Hơn nữa, theo Điều 91 của Luật Phòng, Chống tham nhũng 2018, các cơ quan có thẩm quyền Việt Nam sẽ hợp tác với cơ quan nước ngoài trong việc kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, tịch thu hoặc tạm giữ tài sản bất hợp pháp và trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp của họ.

2.7. Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022

Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 gồm 4 chương, 66 điều, trong đó, quy định về hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền bao gồm: nguyên tắc chung về hợp tác quốc tế; nội dung hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền; trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền.

Điều 3 đưa ra khái niệm tài sản do phạm tội mà có là tài sản có được trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành vi phạm tội; phần thu nhập, hoa lợi, lợi tức, lợi nhuận sinh ra từ tài sản có được từ hành vi phạm tội.

Tại Điều 6 của Luật này xác định nội dung hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền: (i) Xác định, phong tỏa tài sản của người phạm tội rửa tiền; (ii) Thực hiện tương trợ tư pháp; (iii) Trao đổi, cung cấp, chuyển giao thông tin về phòng, chống rửa tiền với cơ quan có thẩm quyền nước ngoài; (iv) Nghiên cứu, đào tạo, hỗ trợ thông tin, hỗ trợ kỹ thuật, trợ giúp tài chính và trao đổi kinh nghiệm về phòng, chống rửa tiền; và (v) Nội dung hợp tác khác về phòng, chống rửa tiền theo quy định của pháp luật.Như vậy luật chỉ quy định thực hiện tương trợ tư pháp là một nội dung của hợp tác quốc tế. Việc thực hiện hoạt động này như thế này sẽ phải tuân thủ các quy định của pháp luật chuyên ngành khác.

Luật Phòng, chống rửa tiền quy định về các hoạt động thu thập, xử lý, phân tích, trao đổi, cung cấp thông tin và chuyển giao thông tin về phòng, chống rửa tiền.

- Về thu thập, xử lý và phân tích thông tin về phòng, chống rửa tiền (Điều 41)

+ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (SBV) được quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, hồ sơ, tài liệu cần thiết để thực hiện phân tích, chuyển giao thông tin về phòng, chống rửa tiền, hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền.

+  Tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm cung cấp cho SBV thông tin, hồ sơ, tài liệu quy định tại khoản 1 Điều 41 Luật Phòng, chống rửa tiền 2022.

- Về hoạt động trao đổi, cung cấp, chuyển giao thông tin về phòng, chống rửa tiền với cơ quan có thẩm quyền trong nước (Điều 42).

+ Khi có cơ sở hợp lý để nghi ngờ giao dịch được nêu trong thông tin, báo cáo liên quan đến rửa tiền, trong thời hạn 07 ngày làm việc, SBV có trách nhiệm chuyển giao thông tin hoặc hồ sơ vụ việc cho cơ quan có thẩm quyền để phục vụ việc xác minh, điều tra, truy tố, xét xử.

Thông tin giao dịch đáng ngờ do SBV chuyển giao cho cơ quan có thẩm quyền là bí mật nhà nước.

+  SBV có trách nhiệm phối hợp, trao đổi thông tin về phòng, chống rửa tiền với các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.

+ SBV có trách nhiệm trao đổi, cung cấp thông tin với các Bộ, ngành có liên quan nhằm mục đích phòng, chống rửa tiền.

- Về hoạt động trao đổi, cung cấp, chuyển giao thông tin về phòng, chống rửa tiền với cơ quan có thẩm quyền nước ngoài (Điều 43):

+  SBV gửi yêu cầu đến cơ quan phòng, chống rửa tiền và cơ quan có thẩm quyền nước ngoài để thu thập, bổ sung thông tin phục vụ cho việc xử lý, phân tích và chuyển giao thông tin về phòng, chống rửa tiền; tiếp nhận thông tin phản hồi, thông tin chuyển giao của cơ quan phòng, chống rửa tiền, cơ quan có thẩm quyền nước ngoài và xử lý thông tin nhận được theo quy định của Luật Phòng, chống rửa tiền 2022.

+ SBV tiếp nhận yêu cầu cung cấp thông tin từ cơ quan có thẩm quyền nước ngoài với mục đích phục vụ cho công tác phòng, chống rửa tiền và cung cấp thông tin phản hồi.

+ SBV cung cấp, chuyển giao thông tin cho cơ quan có thẩm quyền nước ngoài theo quy định của Luật này.

+ Thông tin giao dịch đáng ngờ do SBV trao đổi, cung cấp, chuyển giao cho cơ quan có thẩm quyền nước ngoài là bí mật nhà nước.

Những quy định tại Điều 43 Luật phòng, chống rửa tiền 2022 đã đáp ứng được yêu cầu tại Điều 56 UNCAC

Đơn vị tình báo tài chính

Đơn vị tình báo tài chính (FIU) của Việt Nam được Ngân hàng nhà nước thành lập vào năm 2005 với tư cách là cơ quan duy nhất tiếp nhận và xử lý thông tin liên quan đến giao dịch và các thông tin khác. Sau đó, Cục Phòng chống rửa tiền (AMLD) - cơ quan trực thuộc Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng của SBV - là đơn vị tình báo tài chính của Việt Nam theo Quyết định số 1367/QĐ-NHNN ngày 26/6/2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Phòng, chống rửa tiền thuộc Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng.

AMLD thực hiện các nhiệm vụ: tiếp nhận thông tin, báo cáo theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền và các thông tin khác nghi ngờ liên quan đến rửa tiền hoặc tội phạm khác liên quan đến rửa tiền; Phân tích, xử lý báo cáo, thông tin nghi ngờ liên quan đến rửa tiền, tài trợ khủng bố hoặc tội phạm khác liên quan đến rửa tiền theo quy định của pháp luật; lập danh sách cảnh báo tổ chức, cá nhân có rủi ro cao về rửa tiền theo quy định của pháp luật; cảnh báo những vấn đề nảy sinh liên quan đến rủi ro rửa tiền, tài trợ khủng bố hoặc tội phạm khác liên quan đến rửa tiền;...

Các đơn vị báo cáo được yêu cầu nộp các báo cáo giao dịch đáng ngờ - STRs (liên quan đến rửa tiền hoặc các hành vi tội phạm nguồn), các giao dịch có giá trị lớn, chuyển khoản điện tử và các thông tin khác cho NHNN. AMLD có trách nhiệm trao đổi thông tin với các cơ quan có thẩm quyền trong việc giám sát, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án liên quan đến rửa tiền. Bộ Công an có trách nhiệm chia sẻ thông tin với SBV và thực hiện tương trợ tư pháp trong phòng, chống rửa tiền trong phạm vi chức năng của mình. Cơ chế hiện tại để trao đổi thông tin giữa AMLD và Bộ Công an dựa trên quy trình thủ công thông qua việc gửi yêu cầu bằng văn bản.

AMLD chịu trách nhiệm chuyển giao tài liệu thông tin cho cơ quan điều tra  khi có cơ sở hợp lý nghi ngờ  rằng các giao dịch liên quan đến rửa tiền hoặc hành vi rửa tiền nhằm vào tài trợ khủng bố (Điều 10, 11 Nghị định 19/2023/NĐ-CP ngày 28/4/2023 của Chính Phủ, quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền 2022). Điều khoản này đủ rộng để cho phép AMLD chủ động chuyển giao thông tin cũng như cung cấp thông tin theo yêu cầu. AMLD có trách nhiệm chuyển giao thông tin hoặc hồ sơ vụ án liên quan tới rửa tiền, tài trợ khủng bố hoặc các tội phạm khác liên quan tới rửa tiền tới các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của Pháp luật.

Như vậy, FIU của Việt Nam được pháp luật trao đầy đủ thẩm quyền trong việc nhận, phân tích, và chuyển cho các cơ quan có thẩm quyền báo cáo về các giao dịch tài chính đáng ngờ. Điều này đáp ứng được yêu cầu tại Điều 58 UNCAC.

Các hoạt động phòng, chống rửa tiền đa dạng và chia thành 2 nhóm: nhóm mang tính chất đấu tranh và nhóm mang tính chất phòng ngừa.

Đối với nhóm mang tính chất đấu tranh bao gồm các hoạt động xác định, phong tỏa tài sản của người phạm tội rửa tiền; thực hiện tương trợ tư pháp. Như vậy, khi có các hoạt động này, căn cứ pháp lý để thực hiện chính là BLTTHS và Luật tương trợ tư pháp. Tuy nhiên, với diễn đạt như điểm a Khoản 2 Điều 6 Luật Phòng, chống rửa tiền 2022 thì các biện pháp này chủ yếu bao gồm quy định tại Điều 129 phong tỏa tài khoản. Riêng Điều 128 tịch thu tài sản và Điều 437 tịch thu tài sản, Điều 438 phong tỏa tài khoản đối với pháp nhân phạm tội sẽ không được áp dụng.

Đối với nhóm mang tính chất phòng ngừa bao gồm nhiều hoạt động đa dạng như: trao đổi, cung cấp, chuyển giao thông tin về phòng, chống rửa tiền với cơ quan có thẩm quyền nước ngoài; và nghiên cứu, đào tạo, hỗ trợ thông tin, hỗ trợ kỹ thuật, trợ giúp tài chính và trao đổi kinh nghiệm về phòng, chống rửa tiền.

2.8. Luật thi hành án dân sự

Ở Việt Nam, thu hồi tài sản tham nhũng thường được thực hiện thông qua thủ tục thi hành án dân sự. Luật thi hành án dân sự ngay từ phạm vi của luật đã quy định luật này được áp dụng để điều chỉnh về… tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự. Việc này được thực hiện thông qua hệ thống tổ chức thi hành án dân sự từ trung ương đến địa phương với trình tự, thủ tục được quy định cụ thể tại Chương III từ Điều 26-65 Luật thi hành án dân sự. Luật thi hành án dân sự cũng dành Mục 1 Chương V để quy định về thi hành khoản tịch thu sung quỹ nhà nước; tiêu huỷ tài sản, hoàn trả tiền, tài sản kê biên, tạm giữ trong bản án, quyết định hình sự. Tuy nhiên, chỉ với một mục nhỏ như vậy chưa thể giải quyết được hết các vấn đề liên quan trong thu hồi tài sản ở giai đoạn thi hành án, đặc biệt là tài sản trong các vụ án tham nhũng.

3. Thực trạng hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự của Việt Nam trong thu hồi tài sản và phòng chống rửa tiền

3.1. Về triển khai thực hiện Luật tương trợ tư pháp

* Ban hành kế hoạch triển khai thi hành Luật

Ngay sau khi Luật tương trợ tư pháp có hiệu lực thi hành, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Bộ, ngành có liên quan đã xác định chương trình tổng thể và từng năm thực hiện các biện pháp, nhiệm vụ nhằm bảo đảm hiệu quả triển khai thi hành Luật trong thực tiễn, cụ thể như sau: (1) Tổ chức tuyên truyền, phổ biến Luật tương trợ tư pháp và các văn bản hướng dẫn thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự, góp phần nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức, qua đó giúp cho việc thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp hình sự được hiệu quả; (2) Tổ chức rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật, thống kê các văn bản cần được sửa đổi, thay thế hoặc bãi bỏ để phù hợp với quy định của Luật tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự; (3) Xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết thi hành Luật tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự; (4) Xây dựng và tổ chức thực hiện các chuyên đề, đề tài, đề án, tài liệu tập huấn, sổ tay công tác tương trợ tư pháp bảo đảm triển khai thi hành Luật tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự; (5) Chuẩn bị các nguồn lực (về tổ chức, bộ máy, nhân lực, vật lực) cho việc bảo đảm triển khai thực hiện nhiệm vụ được phân công; (6) Phối hợp thường xuyên giữa các cơ quan có thẩm quyền trong nước để triển khai thi hành Luật tương trợ tư pháp; (7) Tổ chức các Hội nghị sơ kết đánh giá kết quả thi hành, rút kinh nghiệm trong quá trình thực hiện Luật tương trợ tư pháp, xác định những hạn chế, khó khăn, vướng mắc để tháo gỡ trong thực tiễn và làm cơ sở cho việc kiến nghị sửa đổi, hoàn thiện pháp luật tương trợ tư pháp về hình sự; (8) Tổ chức và tham gia các cuộc họp, hội nghị, hội thảo, diễn đàn quốc tế và khu vực về tư pháp hình sự nói chung và tương trợ tư pháp hình sự nói riêng, trong đó có các hội thảo chuyên biệt về rửa tiền và thu hồi tài sản, nhằm tăng cường đối thoại và trao đổi thông tin liên quan đến các vấn đề tương trợ tư pháp về hình sự (như: Hội nghị Viện trưởng Viện kiểm sát, Viện công tố các nước ASEAN và Trung Quốc, Hội nghị Hiệp hội công tố viên quốc tế, Hiệp hội các cơ quan phòng chống tham nhũng quốc tế, Diễn đàn tư pháp hình sự khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (Crim-AP), Mạng lưới hợp tác tư pháp khu vực Đông Nam Á (SEAJust)).

Đặc biệt, năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã hoàn thành thủ tục để Việt Nam chính thức gia nhập Mạng lưới liên cơ quan thu hồi tài sản khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (ARIN-AP). Đây là mạng lưới không chính thức các đầu mối liên lạc và là một nhóm hợp tác trên tất cả các mặt liên quan đến việc xử lý các khoản thu phạm tội, được chính thức thành lập vào tháng 11/2013. ARIN-AP nhằm chia sẻ thông tin về các cá nhân, công ty và tài sản ở cấp quốc tế với mục đích hỗ trợ việc tìm và thu hồi các khoản thu từ hoạt động bất hợp pháp. Thông qua mạng lưới này, các nhà thực thi pháp luật và chuyên gia, các yêu cầu về hợp tác xuyên quốc gia sẽ được chuyển trực tiếp đến các cơ quan trong nước có liên quan, làm cho việc thu hồi tài sản được thực hiện nhanh chóng hơn. Ở Việt Nam, việc thu hồi tài sản do phạm tội mà có ngày càng được Đảng, Nhà nước, các cơ quan thực thi pháp luật quan tâm trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, nhất là tài sản bị tẩu tán ra nước ngoài. Ngày càng có nhiều yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự được lập, gửi đi nước ngoài đề nghị thực hiện. Việc gia nhập ARIN-AP sẽ nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này, góp phần thu hồi được các nguồn tài sản bất hợp pháp về cho Nhà nước. Việc gia nhập ARIN-AP là sự thể hiện việc thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế có liên quan của Việt Nam khi nhiều điều ước quốc tế đa phương như Công ước chống tham nhũng (UNCAC), Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (UNTOC) đều khuyến nghị quốc gia thành viên gia nhập các mạng lưới hợp tác trong thu hồi tài sản do phạm tội mà có.

* Rà soát, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật để phù hợp với Luật tương trợ tư pháp

Kể từ khi Luật tương trợ tư pháp năm 2007 có hiệu lực đến nay, đã có nhiều văn bản pháp luật được ban hành có quy định liên quan đến hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự, đó là: BLTTHS 2015, Bộ luật hình sự 2015, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014, Luật phòng, chống tham nhũng 2018... Theo quy định của những đạo luật này, phạm vi tương trợ tư pháp về hình sự ngày càng được mở rộng, cụ thể và bám sát với đòi hỏi của thực tiễn và xu hướng quốc tế. Hiện nay, các quy định có liên quan đến tương trợ tư pháp tại các Bộ luật, luật nêu trên và Luật tương trợ tư pháp cơ bản đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động tương trợ tư pháp hình sự.

* Xây dựng, ban hành các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật tương trợ tư pháp  

Thực hiện nhiệm vụ được giao trong việc triển khai thi hành quy định tại Điều 28 Luật tương trợ tư pháp, VKSND tối cao đã chủ trì, phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao xây dựng và ban hành Thông tư liên tịch số 02/2013/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BNG ngày 16/8/2013 hướng dẫn việc tiếp nhận, chuyển giao hồ sơ, vật chứng của vụ án để yêu cầu nước ngoài tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng đã quan tâm, tập trung làm tốt công tác hướng dẫn cho cơ quan tiến hành tố tụng các cấp trong thực hiện các quy định về tương trợ tư pháp hình sự, nhất là việc hướng dẫn lập hồ sơ ủy thác tư pháp theo đúng quy định của Luật Tương trợ tư pháp và các Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự đã ký kết, qua đó giúp cho việc thực hiện các yêu cầu tương trợ hình sự đạt hiệu quả; cụ thể như sau:

+ Hướng dẫn số 943/VKSTC-HTQT ngày 05/4/2012 về việc thông báo và tiếp xúc lãnh sự trong các vụ án có công dân nước ngoài bị bắt, tạm giam, tạm giữ tại Việt Nam.

+ Hướng dẫn số 1918/VKSTC-HTQT ngày 15/6/2012 về giải quyết yêu cầu ban hành quyết định pháp lý cuối cùng trong các vụ án do phía nước ngoài chuyển giao truy cứu trách nhiệm hình sự công dân Việt Nam tại Việt Nam.

+ Báo cáo số 1967/VKSTC-HTQT ngày 19/6/2012 gửi Chủ tịch nước đề xuất việc cam kết không áp dụng án tử hình trong hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự.

+ Hướng dẫn số 19/HD-VKSTC-HTQT ngày 24/7/2012 về thực hiện Điều 4 Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Lào liên quan đến hợp tác trực tiếp giữa Viện kiểm sát các tỉnh biên giới Việt Nam và Lào.

+Công văn số 3892/VKSTC-V13 ngày 03/10/2017 hướng dẫn các Viện kiểm sát địa phương quán triệt thực hiện Bản ghi nhớ về tăng cường hợp tác trực tiếp giữa Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh có chung đường biên giới Việt Nam - Trung Quốc ngày 17/9/2017.

+ Hướng dẫn số 38/HD-VKSTC ngày 24/12/2019 về lập yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự gửi VKSND tối cao Trung Quốc để thực hiện hướng dẫn cho VKSND các cấp trong cả nước.

Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành 493 văn bản hướng dẫn cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền hoàn thiện hồ sơ ủy thác tư pháp cho nước ngoài; đồng thời, tăng cường công tác hướng dẫn trực tiếp người tiến hành tố tụng được giao giải quyết vụ án hình sự có liên quan đến yêu cầu tương trợ tư pháp để đảm bảo cho việc lập, gửi và thực hiện yêu cầu tương trợ đúng quy định và kịp thời. Đến nay, nhiều cơ quan tiến hành tố tụng đã nhận thức được sự cần thiết và tầm quan trọng của công tác tương trợ tư pháp về hình sự nên chủ động liên hệ với Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị hướng dẫn trước khi lập hồ sơ ủy thác tư pháp.

Qua tổng kết thực tiễn và nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã xây dựng bộ mẫu văn bản ủy thác tư pháp về hình sự gửi đi nước ngoài để áp dụng thống nhất trên thực tiễn. Mẫu ủy thác có kèm chú thích chi tiết đã tạo điều kiện cho các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền lập hồ sơ ủy thác tư pháp được đầy đủ, chính xác, góp phần đẩy nhanh tiến độ thực hiện, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giải quyết vụ án hình sự.

Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Ngoại giao trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao đã chú ý lồng ghép nội dung hướng dẫn hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự trong các chương trình tập huấn, hội thảo của Bộ, ngành mình và kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn đối với những vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện tương trợ ở địa phương.

* Công tác đàm phán, ký kết điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp về hình sự

Thực hiện nhiệm vụ theo quy định tại Điều 64 Luật Tương trợ tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã xây dựng Kế hoạch đàm phán, ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự và cụ thể hóa thành kế hoạch hằng năm. Mục tiêu của Kế hoạch là tập trung thúc đẩy đàm phán, ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự với các nước đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, các nước có quan hệ truyền thống, các nước láng giềng, các nước có đông người Việt Nam sinh sống, các nước có quan hệ hợp tác kinh tế - đầu tư phát triển với nước ta.

Năm 2013, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã chủ động nghiên cứu, xây dựng Mẫu Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự của Việt Nam để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chủ động đề xuất đàm phán, ký kết Hiệp định với các nước. Mẫu Hiệp định này đã báo cáo, được Chủ tịch nước và Thủ tướng Chính phủ đồng ý cho phép sử dụng làm cơ sở xây dựng phương án đàm phán của Việt Nam trong lĩnh vực tương trợ tư pháp về hình sự. Phần lớn các Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự do Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì đàm phán, ký kết với nước ngoài thời gian gần đây đều căn cứ trên Mẫu Hiệp định này. Trong đó đáng chú ý là Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã chú trọng đến công tác thu hồi tài sản bằng việc đưa nội dung về tịch thu, trả lại tài sản do phạm tội mà có vào Hiệp định mẫu.

Từ năm 2012 đến nay, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao, Tòa án nhân dân tối cao tiến hành đàm phán thành công 18 Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự với các nước Cộng hòa Nam Phi, Cộng hòa In-đô-nê-xi-a, Ô-xtơ-rây-li-a, Cộng hòa Pháp, Hung-ga-ri, Vương quốc Tây Ban Nha, Vương quốc Cam-pu-chia, Cộng hòa Ca-dắc-xtan, Cộng hòa U-dơ-bê-ki-xtan, Cộng hòa Cu Ba, Cộng hòa Mô-dăm-bích, Cộng hòa Séc, Nhật Bản, Cộng hòa I-ta-li-a, CHDCND Lào, Các Tiểu vương quốc A-rập thống nhất, Cộng hòa hồi giáo I-ran, Cộng hòa Ác-hen-ti-na; trong đó có 16 Hiệp định đã được ký chính thức, bao gồm Hiệp định với các nước Cộng hòa In-đô-nê-xi-a (2013), Ô-xtơ-rây-li-a (2014), Vương quốc Tây Ban Nha (2015), Cộng hòa Pháp (2016), Hung-ga-ri (2016), Vương quốc Cam-pu-chia (2016), Cộng hòa Ca-dắc-xtan (2017), Cộng hòa Cu Ba, Cộng hòa Mô-dăm-bích (2018), CHDCND Lào (2019), Nhật Bản (2021), Cộng hòa U-dơ-bê-ki-xtan (năm 2022), Cộng hòa Séc (2023), Cộng hòa Ác-hen-ti-na (2023), Cộng hòa I-ta-li-a (2023), Cộng hòa hồi giáo I-ran (2023). Đến thời điểm hiện nay, 11 Hiệp định đã có hiệu lực.

Việc đàm phán, ký kết thành công các Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự song phương cũng như việc gia nhập, triển khai thực hiện các điều ước đa phương như Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa các quốc gia ASEAN, Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng (UNCAC), Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (UNTOC), đã góp phần tạo thuận lợi và nâng cao hiệu quả hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự giữa Việt Nam với nước ngoài. Đáng chú ý, thời gian gần đây, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã đưa quy định về chi phí liên quan đến việc thu hồi tài sản do phạm tội mà có để bổ sung căn cứ cho các cơ quan có thẩm quyền thực hiện loại yêu cầu này (Hiệp định với Hung-ga-ri, Cam-pu-chia, Ca-dắc-xtan...).

Trên cơ sở các điều khoản quy định trong các Hiệp định này, các yêu cầu tương trợ của cơ quan tiến hành tố tụng Việt Nam gửi đi nước ngoài cũng như yêu cầu của nước ngoài gửi Việt Nam được lập có căn cứ pháp lý vững chắc, cụ thể, từ đó bảo đảm về chuẩn mực pháp lý và tính đầy đủ của thông tin. Cùng với đó, yêu cầu được lập, gửi trên cơ sở các Hiệp định có tính ràng buộc về nghĩa vụ thực hiện tương trợ; do đó, việc thực hiện tương trợ có kết quả tương đối cao và rút ngắn thời gian thực hiện tương trợ. Vì vậy, việc ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự đã góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện khung pháp lý để nâng cao hiệu quả hợp tác đấu tranh phòng, chống tội phạm với các nước; đồng thời, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người Việt Nam ở nước ngoài, góp phần làm phong phú thêm nội hàm quan hệ hợp tác giữa nước ta và các nước trên thế giới.

* Công tác tuyên truyền, phổ biến về Luật tương trợ tư pháp  

Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã đẩy mạnh việc tuyên truyền, phổ biến rộng rãi Luật tương trợ tư pháp và các văn bản hướng dẫn thi hành thông qua các hình thức như: Tổ chức nghiên cứu xây dựng và thực hiện các đề tài, chuyên đề nghiệp vụ về công tác tương trợ tư pháp hình sự; biên soạn tài liệu, giáo trình phục vụ công tác giảng dạy về tương trợ tư pháp hình sự trong các cơ sở đào tạo của ngành Kiểm sát nhân dân; đăng tải các bài viết về tương trợ tư pháp trên báo, tạp chí, trang thông tin điện tử của Ngành; đăng tải các Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự lên cổng thông tin điện tử của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; tổ chức các Hội nghị sơ kết đánh giá kết quả thi hành, rút kinh nghiệm trong quá trình thực hiện Luật tương trợ tư pháp, xác định những hạn chế, khó khăn, vướng mắc để tháo gỡ cho thực tiễn và làm cơ sở cho việc kiến nghị sửa đổi, hoàn thiện pháp luật tương trợ tư pháp về hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã chủ động xây dựng, phát hành cuốn Sổ tay hướng dẫn công tác tương trợ tư pháp hình sựđến các Viện kiểm sát địa phương, các đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao và một số Bộ, ngành liên quan. Sổ tay này là tài liệu tham khảo cho các Kiểm sát viên, Điều tra viên và cán bộ làm công tác hình sự, góp phần nâng cao nhận thức về công tác tương trợ tư pháp hình sự và thực hiện tốt công tác này trên thực tiễn; sau đó năm 2022 đã chỉnh sửa, bổ sung, cập nhật thông tin pháp luật và phát hành cuốn Sổ tay tương trợ tư pháp về hình sự. Phát hành cuốn tập hợp các văn bản pháp luật và hướng dẫn về tương trợ tư pháp hình sự để hỗ trợ các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tham khảo, áp dụng trong quá trình lập yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã phối hợp với các Cơ quan trung ương nước ngoài, các tổ chức quốc tế, dự án quốc tế tổ chức nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm với thành phần mở rộng đến Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán ở các cơ quan tiến hành tố tụng cấp trung ương và địa phương. Nội dung của các hội thảo, tọa đàm là nhằm trao đổi pháp luật trong nước và nước ngoài; chia sẻ kinh nghiệm quốc tế; giải thích, hướng dẫn các quy định về tương trợ tư pháp về hình sự để cán bộ làm công tác thực tiễn nâng cao nhận thức; chia sẻ kinh nghiệm và cách làm hay trong việc giải quyết các yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự, đặc biệt là yêu cầu thu hồi tài sản liên quan đến tội phạm rửa tiền là loại hình tương trợ ngày càng phổ biến và phức tạp hiện nay.

Các hoạt động phổ biến, tuyên truyền nêu trên đã góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức về ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác tương trợ tư pháp về hình sự và giúp cho việc triển khai thực hiện Luật tương trợ tư pháp được thuận lợi.

3.2. Tiếp nhận, giải quyết yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài gửi đến Việt Nam

Từ năm 2008 đến nay, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã tiếp nhận, giải quyết 859 yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự của các cơ quan có thẩm quyền nước ngoài. Các đơn vị tiếp nhận, giải quyết nhiều yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự là Cơ quan điều tra Bộ Công an và cơ quan tiến hành tố tụng của các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Hồ Chí Minh, Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên, Thanh Hóa... Có khoảng 87% yêu cầu tương trợ tư pháp liên quan đến các nước đã ký Hiệp định tương trợ tư pháp hình sự với Việt Nam. Các nước có nhiều yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự là Cộng hòa Séc, Xlô-va-ki-a, Liên bang Nga, Cộng hòa Ba Lan, Hàn Quốc, Ô-xtơ-rây-li-a, Pháp, Đài Loan … Các yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự của nước ngoài có nội dung liên quan đến việc thu thập, cung cấp chứng cứ, lấy lời khai, xác minh chiếm 47.2%; yêu cầu tống đạt tài liệu, giấy tờ chiếm 30.9%; yêu cầu chuyển giao truy cứu trách nhiệm hình sự chiếm 12.9% và yêu cầu khác (triệu tập người làm chứng, người giám định, cử cán bộ có thẩm quyền tham gia thực hiện tương trợ...) chiếm 9%.

Thực tiễn đã phát sinh một số yêu cầu có nội dung tương trợ mới như yêu cầu cho phép cán bộ có thẩm quyền nước ngoài vào Việt Nam tham gia vào quá trình thực hiện yêu cầu tương trợ, tổ chức lấy lời khai người làm chứng qua cầu truyền hình...Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã phối hợp với Bộ Công an tiếp và làm việc với nhiều đoàn công tác của Công tố viên, Điều tra viên từ Hoa Kỳ, Cộng hòa Pháp, Vương quốc Anh, Ô-xtơ-rây-li-a, Đài Loan (Trung Quốc)... sang Việt Nam với mục đích liên quan đến việc thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp. Các hoạt động được thực hiện chủ yếu là lấy lời khai người có liên quan, người làm chứng, xác định hiện trường, kiểm tra hiện trạng đồ vật, thu thập tài liệu, chứng cứ... Việc phối hợp tích cực và có trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền Việt Nam đã được các đối tác nước ngoài đánh giá cao.

Yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự của nước ngoài liên quan đến nhiều loại tội phạm; trong đó có những tội phạm nghiêm trọng như rửa tiền (46/859 yêu cầu, chiếm 5,4%), các tội phạm nguồn của tội rửa tiền (273/859 yêu cầu, chiếm 31,8%). Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã tập trung làm tốt công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự; thẩm định, kiểm tra, rà soát, theo dõi, đôn đốc tiến độ giải quyết và phối hợp với Cơ quan điều tra và các cơ quan khác có thẩm quyền trong nước giải quyết yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự. Do vậy, việc thực hiện các yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự cơ bản đáp ứng về thời hạn, thủ tục và nội dung theo yêu cầu của phía nước ngoài, thể hiện thiện chí và cam kết hợp tác đấu tranh phòng, chống tội phạm của Nhà nước Việt Nam. Đáng chú ý là việc Viện kiểm sát nhân dân tối cao phối hợp với các bộ, ngành liên quan xử lý kịp thời yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự liên quan đến yêu cầu lệnh khám xét của Cơ quan Tổng chưởng lý Ô-xtơ-rây-li-a trong Chuyên án Ironside năm 2021. Đây là một chuyên án do Cảnh sát Liên bang Ô-xtơ-rây-li-a và Cục điều tra liên bang Mỹ lên kế hoạch, nhằm vào tổ chức tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia với mạng lưới buôn bán ma túy và rửa tiền đặt tại nhiều quốc gia trên thế giới.

3.3. Tiếp nhận, giải quyết yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự do cơ quan có thẩm quyền Việt Nam gửi đi nước ngoài

Từ năm 2008 đến nay, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã tiếp nhận, giải quyết 2.302 yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng trong nước gửi cho cơ quan có thẩm quyền nước ngoài đề nghị thực hiện. Các đơn vị có nhiều yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự là Cơ quan điều tra Bộ Công an và cơ quan tiến hành tố tụng các tỉnh, thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Điện Biên, Quảng Ninh, Bình Dương, Thừa Thiên Huế...

Các yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự liên quan đến các nước đã ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự với Việt Nam chiếm khoảng 75% tổng số yêu cầu gửi đi. Các nước nhận nhiều yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự của Việt Nam là CHND Trung Hoa, CHDCND Lào, Vương quốc Cam-pu-chia, Ô-xtơ-rây-li-a, Hàn Quốc, Đài Loan, Xinh-ga-po, Liên bang Nga, Vương quốc Anh, Hồng Kông (Trung Quốc), Hoa Kỳ…

Nội dung công việc, phạm vi yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự khá đa dạng, trong đó: yêu cầu về thu thập, cung cấp chứng cứ, lấy lời khai, xác minh lý lịch tư pháp chiếm 86,5%; yêu cầu tống đạt tài liệu, giấy tờ chiếm 5,6%; yêu cầu chuyển giao truy cứu trách nhiệm hình sự chiếm 0,9% và các yêu cầu khác (triệu tập người làm chứng, người giám định, cử cán bộ có thẩm quyền tham gia thực hiện tương trợ tư pháp...) chiếm 7%.

Thời gian gần đây thực tiễn đã bắt đầu xuất hiện một số yêu cầu tương trợ tư pháp đề nghị nước ngoài hỗ trợ thực hiện liên quan đến thu hồi tài sản do phạm tội mà có (11/2.302 yêu cầu, chiếm tỷ lệ 0,5%), thu thập chứng cứ dữ liệu điện tử, đề nghị nước ngoài thu xếp để cán bộ có thẩm quyền Việt Nam sang tham gia thực hiện tương trợ, tổ chức cho người làm chứng sang nước yêu cầu để hỗ trợ điều tra, cung cấp chứng cứ... Nội dung các yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự ngày càng đa dạng, phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực và tội phạm; trong đó có những tội phạm nghiêm trọng như rửa tiền và các tội phạm nguồn của tội phạm rửa tiền; trong đó, yêu cầu liên quan đến tội phạm rửa tiền chiếm 11/2.302 yêu cầu (0,5%); các tội phạm nguồn của tội rửa tiền 1.703/2.032 yêu cầu (chiếm74%).

Kết quả hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự đã có tác động hiệu quả trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần giải quyết triệt để các vụ án có yếu tố nước ngoài, trong đó có nhiều vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp, các vụ án về tham nhũng, chức vụ, kinh tế, được dư luận quan tâm.

Đáng chú ý là công tác thu hồi tài sản về cho Nhà nước đã đạt được những kết quả khích lệ.Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền trong nước và Cơ quan Tổng Chưởng lý Xinh-ga-po thực hiện thành công yêu cầu về thu hồi tài sản do phạm tội mà có của Phan Sào Nam trong vụ án Tổ chức đánh bạc, Rửa tiền; của Giang Kim Đạt trong vụ án Cố ý làm trái quy định Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng; Tham ô tài sản; Chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có; Che giấu tội phạm. Với yêu cầu liên quan đến Phan Sào Nam, đây là lần đầu tiên việc thu hồi tài sản đang ở nước ngoài trong các vụ án của Việt Nam được thực hiện thông qua hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự. Với yêu cầu liên quan đến Giang Kim Đạt, đây là lần đầu tiên, một bản án hình sự của Việt Nam được Xinh-ga-po công nhận là lệnh tịch thu nước ngoài tại Tòa án Xinh-ga-po và tiến hành các thủ tục theo quy định của pháp luật Xinh-ga-po để trả lại tiền do phạm tội mà có cho Nhà nước Việt Nam.

3.4. Đánh giá

* Kết quả đạt được

- Các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành tương đối đồng bộ, hoàn chỉnh các văn bản quy định chi tiết và các văn bản chỉ đạo, đôn đốc thi hành Luật tương trợ tư pháp.

- Việc ban hành các văn bản hướng dẫn về trình tự, thủ tục, thẩm quyền, trách nhiệm, sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong thực hiện hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự kịp thời, tạo điều kiện để các cơ quan thực hiện hoạt động tương trợ tư pháp một cách thống nhất, đúng trình tự, thủ tục luật định.

- Việc đàm phán, ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự với các nước, trước hết là với các nước láng giềng, các nước trong khu vực, các nước có quan hệ truyền thống được đẩy mạnh, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động hợp tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Các Hiệp định được tổ chức thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả.

- Quan hệ phối hợp giữa các cơ quan đầu mối về tương trợ tư pháp hình sự trong nước và nước ngoài được thiết lập và ngày càng chặt chẽ, giải quyết các vấn đề phức tạp phát sinh trong quá trình triển khai hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự.

- Các bộ, ngành liên quan đã quan tâm và đầu tư cho hoạt động này, do đó nhận thức của các cấp, các ngành ở Trung ương và địa phương về ý nghĩa, vai trò của công tác tương trợ tư pháp ngày càng được nâng lên; các bộ, ngành, địa phương đã tuân thủ và thực hiện tương đối nghiêm túc các quy định của Luật tương trợ tư pháp và các Hiệp định, các Điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp hình sự, qua đó hoạt động tương trợ tư pháp có những bước chuyển biến tích cực, ngày càng nền nếp, hiệu quả, phục vụ tốt hơn cho hoạt động tố tụng.

- Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã thực hiện tốt vai trò Cơ quan trung ương trong tương trợ tư pháp hình sự cả trong việc tiếp nhận, hướng dẫn, giải quyết các yêu cầu tương trợ tư pháp và xây dựng, hoàn thiện pháp luật về tương trợ tư pháp hình sự; việc lập, tiếp nhận, thẩm định và chuyển giao thực hiện ủy thác tư pháp ở các Bộ, ngành, địa phương được quan tâm thực hiện, bảo đảm tuân thủ đúng các quy định của Luật tương trợ tư pháp và điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp hình sự; tỷ lệ hồ sơ bị trả lại do không hợp lệ giảm dần; tiết kiệm thời gian, nguồn lực thực hiện. Kết quả công tác tương trợ tư pháp hình sự thời gian qua đã góp phần tích cực vào việc thu thập chứng cứ, thông tin cũng như thực hiện các biện pháp tố tụng cần thiết một cách đầy đủ và kịp thời trong giải quyết các vụ án có yếu tố nước ngoài, nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm, đặc biệt là tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia.

* Khó khăn, vướng mắc trong hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự nói chung

- Đối với yêu cầu tương trợ tư pháp đi:

+ Thực tiễn cho thấy việc triển khai thực hiện các yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự thường mất nhiều thời gian, trong khi việc giải quyết các vụ án, vụ việc hình sự trong nước phải tuân thủ thời hạn luật định. Việc chậm hoặc thậm chí không có kết quả thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp ảnh hưởng đến tiến độ, chất lượng giải quyết các vụ án, vụ việc hình sự.

+ Đối với những quốc gia, vùng lãnh thổ mà giữa Việt Nam và những quốc gia, vùng lãnh thổ đó chưa có Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự: Các yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự được lập trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại và được gửi qua kênh ngoại giao. Quy trình gửi yêu cầu tương trợ qua kênh ngoại giao thường mất nhiều thời gian. Mặc dù VKSND tối cao đã tích cực phối hợp với Cục Lãnh sự - Bộ Ngoại giao trong việc thúc đẩy thực hiện yêu cầu, một số cơ quan đối tác nước ngoài cũng tạo điều kiện thuận lợi trong việc nhận gửi yêu cầu qua thư điện tử, nhưng vẫn phải bảo đảm thực hiện đúng quy định của pháp luật trong nước, do đó cũng làm ảnh hưởng đến thời hạn, tiến độ mà phía nước ngoài thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự của Việt Nam gửi đi.

+ Một số yêu cầu tương trợ của các cơ quan tiến hành tố tụng Việt Nam có khả năng bị nước ngoài từ chối thực hiện vì một số lý do như yêu cầu có liên quan đến hình phạt tử hình (nếu Việt Nam không cam kết về việc sẽ không tuyên án tử hình hoặc có tuyên thì không thi hành bản án); hành vi phạm tội liên quan đến yêu cầu không đáp ứng nguyên tắc tội phạm kép…

+ Việc thực hiện một số yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự như: triệu tập người làm chứng, người giám định; cho phép người tiến hành tố tụng sang nước được yêu cầu để tham gia vào quá trình thực hiện tương trợ tư pháp; dẫn giải người chấp hành hình phạt tù ra nước ngoài để hỗ trợ điều tra hoặc cung cấp chứng cứ; thu thập chứng cứ là dữ liệu điện tử; lấy lời khai người làm chứng qua cầu truyền hình; chuyển giao truy cứu trách nhiệm hình sự... gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện. Kết quả tương trợ nước ngoài thực hiện cho Việt Nam còn chưa đạt hiệu quả mong muốn.

+ Trong thực tiễn, sự phối hợp giữa các cơ quan có liên quan ở cấp trung ương và cơ quan tiến hành tố tụng địa phương trong quá trình lập, gửi, thực hiện một số hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự còn lúng túng, vướng mắc. Cách thức gửi yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự cho nước ngoài của một số cơ quan tiến hành tố tụng còn thiếu nhất quán; không gửi yêu cầu tương trợ tư pháp qua Cơ quan trung ương là Viện kiểm sát nhân dân tối cao mà gửi tới Văn phòng Interpol Việt Nam, Sở Ngoại vụ, Cục Lãnh sự Bộ Ngoại giao, Đại sứ quán hoặc cơ quan lãnh sự các nước hoặc gửi trực tiếp tới các cơ quan tiến hành tố tụng nước ngoài. Cơ quan tiến hành tố tụng ở một số địa phương có chung đường biên giới với các nước láng giềng trực tiếp liên hệ với các cơ quan có thẩm quyền nước Bạn để yêu cầu tương trợ, nhưng không kịp thời báo cáo với Cơ quan trung ương. Vì không phải là tương trợ chính thức nên nhiều yêu cầu tương trợ tư pháp không có kết quả. Trong khi đó, Viện kiểm sát nhân dân tối cao không nắm được thông tin để liên hệ đôn đốc tiến độ thực hiện đối với Cơ quan trung ương của nước ngoài.

- Đối với yêu cầu tương trợ tư pháp đến:

+ Việc thực hiện yêu cầu tương trợ của nước ngoài về thu thập hồ sơ, tài liệu, tài khoản ngân hàng từ năm 2019 đến nay không thực hiện được do quy định về bảo mật của ngân hàng (Nghị định 117/2018/NĐ-CP ngày 11/9/2018).

+ Yêu cầu lấy lời khai qua cầu truyền hình: Quá trình thực hiện yêu cầu này, phía nước ngoài đề nghị thực hiện trình tự, thủ tục lấy lời khai theo quy định về tố tụng hình sự của nước ngoài; do khác với quy định pháp luật Việt Nam nên gặp nhiều lúng túng trong việc thực hiện yêu cầu.

+ Yêu cầu tổ chức cho người làm chứng sang nước ngoài tham gia quá trình thực hiện tương trợ: Với những đối tượng đang bị giam giữ gặp khó khăn trong việc phối hợp để giam giữ, quản lý vì quy định pháp luật giữa hai nước khác nhau. Với những người tự nguyện sang nước ngoài hỗ trợ điều tra, thường mất nhiều thời gian liên hệ để đáp ứng yêu cầu về chi phí ăn ở, đi lại, tổn thất thu nhập của họ trong quá trình ở nước ngoài... 

+ Một số yêu cầu chuyển giao truy cứu trách nhiệm hình sự của nước ngoài gửi đến Việt Nam liên quan đến tội phạm có thể áp dụng hình phạt tử hình theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam. Trong trường hợp này, các nước không áp dụng hình phạt tử hình thường yêu cầu Việt Nam phải đưa ra cam kết không áp dụng án tử hình hoặc áp dụng nhưng không thi hành án tử hìnhthì mới chuyển hồ sơ vụ án cho phía Việt Nam giải quyết. Đây là vấn đề phức tạp nhưng khá phổ biến trong thực tiễn hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự. Tuy nhiên, pháp luật trong nước chưa có quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục cam kết không áp dụng hình phạt tử hình trong hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự nên việc cam kết theo đề nghị của nước ngoài gặp khó khăn.

* Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, tương trợ tư pháp hình sự về tội phạm tham nhũng và thu hồi tài sản còn một số khó khăn, vướng mắc sau:

- Đối với yêu cầu tương trợ tư pháp đi:

+ Thời gian thực hiện các yêu cầu tương trợ của nước ngoài cho Việt Nam còn bị kéo dài, nhiều trường hợp kết quả tương trợ chưa được như mong muốn, thậm chí một số yêu cầu tương trợ không nhận được phản hồi của nước ngoài. Thực trạng này ảnh hưởng đến tiến độ, chất lượng giải quyết các vụ án hình sự về tội phạm tham nhũng.

+ Các yêu cầu tương trợ của Việt Nam gửi nước ngoài đề nghị thu hồi tài sản (hoạt động tương trợ về truy tìm, kê biên, phong tỏa, tịch thu, trả lại tài sản do phạm tội mà có) là loại hình tương trợ phức tạp, có độ khó cao, tính hiệu quả phụ thuộc nhiều vào chuẩn mực pháp lý và thiện chí hợp tác của nước được yêu cầu. Nước được yêu cầu đòi hỏi Việt Nam phải đáp ứng các chuẩn mực pháp lý, thực hiện nhiều thủ tục tố tụng và cung cấp nhiều tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu và việc đáp ứng những đòi hỏi này gặp nhiều vướng mắc do khác biệt giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật nước ngoài. Viện KSND tối cao đã tập trung nguồn lực, thường xuyên đôn đốc nước ngoài thực hiện tương trợ, phối hợp với cơ quan lập yêu cầu bổ sung thông tin, cung cấp chứng cứ theo đề nghị của nước được yêu cầu, nhưng kết quả còn hạn chế.

+ Có yêu cầu tương trợ về tội phạm tham nhũng và thu hồi tài sản liên quan đến tội có khung hình phạt tử hình bị nước ngoài từ chối thực hiện nếu phía Việt Nam không đưa ra cam kết không áp dụng án tử hình hoặc có tuyên nhưng không thi hành. Trong khi đó, pháp luật trong nước hiện nay chưa quy định về điều kiện, thẩm quyền, trình tự, thủ tục đưa ra cam kết này. Đã có yêu cầu liên quan đến tội phạm tham nhũng bị nước ngoài từ chối thực hiện do phía Việt Nam không đưa ra cam kết không áp dụng hình phạt tử hình (yêu cầu liên quan đến Giang Kim Đạt gửi Vương quốc Anh).

+ Đối với yêu cầu về thu hồi tài sản liên quan đến vụ án đã xét xử xong, bản án do tòa án có thẩm quyền không tuyên cụ thể về số tài sản ở nước ngoài cần tịch thu; từ đó, gây khó khăn cho việc chứng minh yêu cầu tương trợ của Việt Nam.

+ Việc lập hồ sơ yêu cầu tương trợ trong một số vụ còn chưa kịp thời, chất lượng còn hạn chế, thiếu thông tin, tài liệu cần thiết, bản dịch chưa bảo đảm. Có trường hợp nước được yêu cầu đòi hỏi yêu cầu tương trợ của Việt Nam phải do Cơ quan trung ương về tương trợ tư pháp hình sự lập, hoặc phải gửi qua kênh ngoại giao mặc dù đã có điều ước quốc tế. Từ đó phát sinh thêm hoạt động hướng dẫn, phối hợp, kéo dài thời gian trong lập, gửi yêu cầu tương trợ.

- Đối với yêu cầu tương trợ tư pháp đến:

+ Việc thực hiện yêu cầu tương trợ về truy tìm, kê biên, phong tỏa, tịch thu, trả lại tài sản do phạm tội mà có của nước ngoài còn gặp khó khăn do thiếu quy định pháp luật trong nước về trình tự, thủ tục thực hiện; trách nhiệm, thẩm quyền thực hiện những yêu cầu này chưa được xác định cụ thể, rõ ràng.

+ Việc thực hiện tương trợ giúp cho nước ngoài vẫn còn bị vướng mắc, đặc biệt là với các quốc gia đang áp dụng nguyên tắc có đi có lại, làm giảm mức độ được hỗ trợ tương ứng của nước cho đối với các yêu cầu tương trợ của Việt Nam. Điển hình như Nghị định số 117/2018/NĐ-CP ngày 11/9/2018 của CP về việc giữ bí mật, cung cấp thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài là căn cứ để các ngân hàng đóng dấu mật vào văn bản cung cấp thông tin ngân hàng theo yêu cầu tương trợ tư pháp nhưng không giải mật dẫn đến các thông tin này không thể gửi cho nước ngoài trả lời yêu cầu tương trợ tư pháp hình sự. Việc này không phù hợp với xu hướng toàn cầu về ý thức phối hợp đấu tranh phòng chống tội phạm, dẫn đến vướng mắc cho công tác tương trợ tư pháp về hình sự và không nhận được thiện chí của nước ngoài khi Việt Nam có yêu cầu tương tự gửi đi các quốc gia khác.

* Nguyên nhân

- Nguyên nhân khách quan:

+ Do vướng mắc, bất cập của Luật tương trợ tư pháp 2007:

(1) Luật điều chỉnh cả 04 lĩnh vực là tương trợ tư pháp về dân sự, hình sự, dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù. Những lĩnh vực này mang tính chuyên ngành cao, có phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng độc lập nhau; nguyên tắc, trình tự, thủ tục, thẩm quyền thực hiện khác nhau nhưng lại quy định trong cùng một văn bản luật là chưa hợp lý. Ví dụ: về nguyên tắc hợp tác, đối với tương trợ tư pháp về hình sự là nguyên tắc hợp tác tối đa; trong chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù là nguyên tắc nhân đạo, chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý của người được yêu cầu chuyển giao; trong dẫn độ cần đảm bảo tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc về quyền tài phán. Bên cạnh đó, Luật tương trợ tư pháp điều chỉnh cả hoạt động dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù dẫn đến việc coi hai hoạt động này là thuộc lĩnh vực tương trợ tư pháp. Như vậy, về mặt kỹ thuật là chưa thực sự phù hợp với thông lệ quốc tế khi các quốc gia trên thế giới đều coi tương trợ tư pháp về dân sự, hình sự, dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù là những chuyên ngành luật độc lập và đều xây dựng các đạo luật riêng biệt điều chỉnh từng lĩnh vực. Sự bất cập này dẫn đến trên thực tế một số cơ quan có thẩm quyền và cán bộ thực thi pháp luật chưa phân định rõ sự khác nhau giữa các lĩnh vực, từ đó gây khó khăn, vướng mắc trong phối hợp triển khai, thi hành. Do Luật điều chỉnh đa lĩnh vực, một số điều luật thuộc phần quy định chung khi áp dụng cho hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự đã thể hiện sự bất hợp lý. Các quy định về tương trợ tư pháp về hình sự chưa đầy đủ, cụ thể, chưa có tính hệ thống, vừa quy định ở Chương 3 (phần về tương trợ tư pháp hình sự) vừa phân tán ở các chương khác; nhiều quy định có nội dung bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, thiếu đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật trong cùng lĩnh vực được ban hành ở giai đoạn sau, nhất là BLTTHS năm 2015.

(2) Điều 4 quy định trong trường hợp giữa các nước chưa ký kết điều ước quốc tế thì áp dụng nguyên tắc có đi có lại trong hoạt động tương trợ tư pháp. Điều 66 giao trách nhiệm cho Bộ Ngoại giao chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xem xét, quyết định áp dụng nguyên tắc có đi có lại trong quan hệ tương trợ tư pháp với nước hữu quan. Đây là nguyên tắc đặc thù, được áp dụng khá nhiều trong thực tiễn nhưng chưa có sự thống nhất về nhận thức cũng như thiếu hướng dẫn thực hiện.

(3) Điều 7 quy định về hợp pháp hóa lãnh sự nêu tại phần những quy định chung của Luật có thể dẫn đến cách hiểu là phải áp dụng trong cả hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự. Trong khi đó, các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia trong cùng lĩnh vực đều quy định miễn việc chứng nhận, chứng thực và hợp pháp hóa lãnh sự đối với giấy tờ, tài liệu trong hồ sơ tương trợ tư pháp hình sự.

(4) Phạm vi tương trợ tư pháp về hình sự quy định tại Điều 17 còn hạn chế, chưa phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Luật chưa có các quy định về cho phép người tiến hành tố tụng của nước yêu cầu được tham gia một số hoạt động trong quá trình thực hiện tương trợ tư pháp tại nước được yêu cầu; tổ chức cho người tại nước được yêu cầu đến nước yêu cầu để hỗ trợ điều tra hoặc cung cấp chứng cứ; chưa quy định cụ thể về tương trợ tư pháp trong việc phong tỏa, kê biên, thu giữ, tịch thu và xử lý tài sản do phạm tội mà có và công cụ, phương tiện phạm tội... là những hoạt động tương trợ tư pháp đã được quy định trong các điều ước quốc tế song phương và đa phương trong lĩnh vực tư pháp hình sự mà Việt Nam đã ký kết, tham gia và đã phát sinh trên thực tiễn. BLTTHS năm 2015 (Phần thứ tám) có quy định hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự đối với các nội dung tương trợ nêu trên; tuy nhiên chỉ là những quy định chung, có tính nguyên tắc, không quy định cụ thể về điều kiện, trình tự, thủ tục nên việc thực hiện những nội dung tương trợ này còn gặp khó khăn.

(5) Điều 17 khoản 1 quy định việc ‟Tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu liên quan đến tương trợ tư pháp về hình sự”; khoản 2 quy định việc ‟Triệu tập người làm chứng, người giám định” dẫn đến nhận thức khác nhau trong quá trình thực hiện. Có quan điểm cho rằng đối tượng quốc tịch Việt Nam bị xác định là bị can, bị cáo trong vụ án hình sự ở nước yêu cầu phải được nhận tống đạt mọi giấy tờ có liên quan theo quy định tại khoản 1 Điều 17, bao gồm cả giấy triệu tập. Tuy nhiên, có quan điểm khác cho rằng chỉ tống đạt giấy triệu tập của nước ngoài đối với người làm chứng, người giám định theo quy định tại khoản 2 Điều 17 mà không thực hiện triệu tập bị can, bị cáo đang ở tại Việt Nam. Từ đó dẫn đến sự không thống nhất trong việc thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài đề nghị triệu tập bị can, bị cáo ở Việt Nam.

(6) Điều 21 quy định về căn cứ từ chối thực hiện tương trợ tư pháp chưa có sự phân biệt trường hợp bắt buộc từ chối và trường hợp có thể từ chối thực hiện. Quy định như vậy chưa phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia và có thể dẫn đến vướng mắc trong thực tiễn. Với xu hướng hợp tác tối đa trong tương trợ tư pháp về hình sự, nhiều quốc gia đã xem xét đồng ý thực hiện tương trợ tư pháp ngay cả khi hành vi có liên quan không cấu thành tội phạm theo quy định pháp luật của nước được yêu cầu trong trường hợp không áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Tuy nhiên, không đáp ứng nguyên tắc “tội phạm kép” vẫn là một trong những căn cứ dẫn đến việc phải bắt buộc từ chối thực hiện tương trợ tư pháp theo quy định tại Luật tương trợ tư pháp.

(7) Luật chưa có quy định cụ thể về trình tự, thủ tục thực hiện một số yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự như: Triệu tập người làm chứng, người giám định; dẫn giải người chấp hành hình phạt tù ra nước ngoài để hỗ trợ điều tra hoặc cung cấp chứng cứ; chuyển giao truy cứu trách nhiệm hình sự... dẫn đến lúng túng, khó khăn trong việc thực hiện. Điển hình như yêu cầu về phong tỏa, thu giữ tài sản trên lãnh thổ Việt Nam kèm theo lệnh tịch thu của Tòa án nước ngoài. Pháp luật tương trợ tư pháp chưa có quy định về chuyển hóa tố tụng đối với các lệnh, quyết định của nước ngoài để có hiệu lực trong lãnh thổ Việt Nam nên các cơ quan tiến hành tố tụng của Việt Nam gặp nhiều khó khăn khi triển khai thực hiện các yêu cầu tương trợ này.

(8) Luật chưa có sự phân biệt rõ về trình tự, thủ tục tiếp nhận, giải quyết yêu cầu tương trợ tư pháp hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng trong nước ủy thác cho nước ngoài thực hiện (yêu cầu tương trợ tư pháp đi) và yêu cầu tương trợ tư pháp hình sự của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài ủy thác cho Việt Nam thực hiện (yêu cầu tương trợ tư pháp đến); chưa quy định thủ tục “đóng” yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự trong trường hợp thời gian thực hiện đã lâu, Cơ quan trung ương đã nhiều lần có văn bản đôn đốc tiến độ nhưng không nhận được kết quả thực hiện tương trợ tư pháp để cơ quan tiến hành tố tụng có căn cứ áp dụng các thủ tục tố tụng tiếp theo đối với vụ án hình sự có liên quan.

(9) Điều 19 quy định về hồ sơ ủy thác, văn bản ủy thác còn một số nội dung chưa hợp lý. Thông tin trong văn bản ủy thác chưa phân biệt rõ nội dung của những yêu cầu ủy thác có phạm vi tương trợ tư pháp khác nhau, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng hồ sơ ủy thác, phát sinh thêm thời gian hướng dẫn lập hồ sơ hoặc phải làm rõ, bổ sung thông tin theo đề nghị của nước được yêu cầu. Luật chưa quy định việc gửi hồ sơ ủy thác tư pháp dưới hình thức điện tử nhằm nâng cao hiệu quả, tính kịp thời của việc tiếp nhận, giải quyết yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự trong khi một số Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự đã quy định và thực tiễn đã triển khai thực hiện.

(10) Chưa có quy định về cơ chế đặc thù trong việc tiếp nhận, giải quyết yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự trực tiếp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng ở địa phương có chung đường biên giới với nước láng giềng, là cơ chế đã được quy định trong Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa Việt Nam và Lào. Chưa có quy định về cơ chế phối hợp giữa Cơ quan trung ương với cơ quan lập hồ sơ ủy thác tư pháp, cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam trong việc trao đổi thông tin, liên hệ đôn đốc giải quyết yêu cầu tương trợ tư pháp. Chưa có quy định Cơ quan trung ương của Việt Nam có thẩm quyền lập ủy thác tư pháp trong trường hợp cụ thể do trong thực tế pháp luật một số quốc gia đòi hỏi yêu cầu tương trợ phải do Cơ quan trung ương của nước yêu cầu lập.

(11) Điều 20 khoản 1 điểm d quy định nơi gửi yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự tới là quốc gia nơi người phạm tội mang quốc tịch. Tuy nhiên, Điều 28 khoản 1 lại quy định nơi gửi yêu cầu tới là quốc gia nơi người phạm tội đang có mặt. Quy định như vậy là chưa thống nhất.

(12) Điều 29 quy định cơ quan tiếp nhận truy cứu trách nhiệm hình sự công dân Việt Nam tại Việt Nam là cơ quan nơi công dân đó cư trú cuối cùng trước khi ra nước ngoài là không hợp lý, vì có nhiều trường hợp công dân Việt Nam đã ra nước ngoài trong thời gian dài, nhiều trường hợp công dân Việt Nam ra nước ngoài trái pháp luật, không khai báo đúng tên tuổi, nơi cư trú cuối cùng của mình. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 29, trường hợp chuyển giao truy cứu trách nhiệm hình sự công dân Việt Nam tại Việt Nam trong giai đoạn điều tra thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh tiếp nhận sau đó chuyển cho cơ quan điều tra cùng cấp để tiến hành điều tra; nếu việc chuyển giao thực hiện trong giai đoạn truy tố thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh tiếp nhận và tiến hành truy tố. Quy định như vậy là chưa hợp lý vì có sự khác nhau trong việc xác định giai đoạn tố tụng theo quy định của pháp luật nước ngoài và Việt Nam.

(13) Điều 31 quy định chi phí thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự giữa Việt Nam với nước ngoài do nước yêu cầu chi trả. Trong khi đó, về cơ bản, các Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa Việt Nam với nước ngoài cũng như theo thông lệ quốc tế thì điều khoản về chi phí quy định theo hướng: Các chi phí thực hiện tương trợ do nước được yêu cầu chi trả, chỉ trừ những trường hợp cụ thể sau do nước yêu cầu chi trả: (1) chi phí gắn với việc chuyên chở người làm chứng, người giám định hoặc người đang bị giam giữ đến hoặc đi từ lãnh thổ của nước được yêu cầu và các khoản thù lao, sinh hoạt phí, chi phí mà người đó được hưởng trong thời gian có mặt tại nước yêu cầu; (2) chi phí gắn với việc chuyên chở của cán bộ dẫn giải hoặc hộ tống; (3) chi phí liên quan đến giám định; (4) chi phí liên quan đến việc phiên dịch, biên dịch và sao chép tài liệu và thu thập chứng cứ bằng hình ảnh qua cầu truyền hình hoặc các phương tiện kỹ thuật khác từ nước được yêu cầu đến nước yêu cầu; (5) chi phí bất thường phát sinh trong quá trình thực hiện yêu cầu khi nước được yêu cầu đề nghị. Như vậy, quy định tại Điều 31 về chi phí trong Luật tương trợ tư pháp là chưa tương thích với quy định của các điều ước quốc tế và thông lệ quốc tế trong lĩnh vực tương trợ tư pháp về hình sự.

(14) Các điều từ Điều 61 đến Điều 70 quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong hoạt động tương trợ tư pháp, trong đó có tương trợ tư pháp về hình sự. Tuy nhiên, những quy định này cũng bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập và không phù hợp với thực tiễn hiện nay. Cụ thể: chưa quy định Cơ quan trung ương trong tương trợ tư pháp về hình sự (mặc dù có quy định nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân tối cao là tiếp nhận, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện ủy thác tư pháp hình sự); chưa quy định cụ thể, rõ ràng về cơ quan thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự của nước ngoài đối với từng loại yêu cầu cụ thể.

+ Sự phối hợp giữa các cơ quan có liên quan ở cấp bộ, ngành trung ương và cơ quan tiến hành tố tụng địa phương trong quá trình triển khai thực hiện một số yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự chưa có quy định cụ thể trong pháp luật Việt Nam còn lúng túng, ví dụ như việc thực hiện yêu cầu chuyển giao truy cứu trách nhiệm hình sự, cam kết liên quan đến không áp dụng án tử hình, các biện pháp phong tỏa, thu hồi tài sản do phạm tội mà có, thu thập chứng cứ là dữ liệu điện tử...

+ Nội dung một số quy định trong các văn bản hướng dẫn thi hành Luật tương trợ tư pháp cũng thể hiện những bất cập và không còn phù hợp với thực tiễn. Sự thiếu gắn kết, chưa đồng bộ và chưa hợp lý của pháp luật tố tụng trong nước liên quan đến tương trợ tư pháp về hình sự cũng làm ảnh hưởng đến việc giải quyết kịp thời các yêu cầu tương trợ tư pháp.

+ Rào cản về ngôn ngữ cũng ảnh hưởng nhiều đến chất lượng, tiến độ giải quyết yêu cầu tương trợ tư pháp và tính bảo mật của hồ sơ, tài liệu. Nhiều địa phương không có các tổ chức dịch thuật chuyên nghiệp. Việc dịch hồ sơ tài liệu từ tiếng Việt sang các thứ tiếng không phổ biến ở Việt Nam cũng gặp nhiều khó khăn như tiếng: Séc, Ba Lan, Lào, Kh-me, Ả-rập... làm hạn chế chất lượng hồ sơ cũng như làm kéo dài thời gian thực hiện tương trợ tư pháp. Một số trường hợp hồ sơ ủy thác gửi đi nước ngoài bị trả lại vì lý do chất lượng bản dịch kém dẫn đến cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài không hiểu và không thực hiện được.

- Nguyên nhân chủ quan:

+ Chất lượng hồ sơ ủy thác tư pháp của các cơ quan tiến hành tố tụng gửi ra nước ngoài còn hạn chế. Nhiều hồ sơ còn thiếu thông tin, tài liệu cần thiết; nội dung không đầy đủ theo quy định của Điều 18, Điều 19 Luật tương trợ tư pháp. Một số hồ sơ không kèm theo bản dịch ra ngôn ngữ của nước được yêu cầu hoặc một ngôn ngữ khác mà nước yêu cầu chấp nhận. Do vậy, số lượng hồ sơ phải hướng dẫn lập lại còn nhiều, ảnh hưởng đến thời hạn giải quyết yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự.

+ Hoạt động phối hợp liên ngành trong hướng dẫn, rà soát, kiểm tra tình hình thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự tại các cơ quan tiến hành tố tụng địa phương chưa được triển khai thường xuyên. Việc hướng dẫn địa phương thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự chưa nhiều.

+ Số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ, kinh phí và điều kiện đảm bảo cho công tác tương trợ tư pháp về hình sự vẫn chưa tương xứng với yêu cầu của hoạt động này. Số lượng cán bộ chuyên trách về công tác tương trợ tư pháp về hình sự còn thiếu trong khi hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự nhìn chung ngày càng phức tạp về nội dung, gia tăng về khối lượng với yêu cầu ngày càng cao. Nhận thức của một bộ phận cán bộ thực thi pháp luật về ý nghĩa, tầm quan trọng của hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật nói chung và hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự nói riêng chưa đầy đủ. Năng lực, trình độ, kiến thức về pháp luật quốc tế, về ngoại ngữ của cán bộ, đặc biệt là cán bộ ở địa phương còn hạn chế. 

(Mời bạn đọc đón xem tiếp Bài 2: Thực trạng pháp luật quốc tế về tương trợ tư pháp hình sự trong thu hồi tài sản và phòng, chống rửa tiền)

BBT
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang