Áp dụng lẽ công bằng trong giải quyết tranh chấp dân sự

06/06/2025 09:39

(kiemsat.vn)
Tại Việt Nam trong thời gian qua, nhiều vụ án thậm chí cả án lệ đã có sự vận dụng linh hoạt lẽ công bằng để kịp thời giải quyết các tranh chấp dân sự, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định.

Xuất phát từ nguyên tắc Tòa án không được từ chối giải quyết tranh chấp dân sự vì lý do chưa có điều luật áp dụng, Bộ luật Dân sự năm 2015 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 bổ sung lẽ công bằng là một nguồn quan trọng trong giải quyết vụ việc dân sự khi chưa có điều luật áp dụng. Tại Việt Nam trong thời gian qua, nhiều vụ án thậm chí cả án lệ đã có sự vận dụng linh hoạt lẽ công bằng để kịp thời giải quyết các tranh chấp dân sự, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định.

Theo khoản 2 Điều 4 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015: “Vụ việc dân sự chưa có điều luật để áp dụng là vụ việc dân sự thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự nhưng tại thời điểm vụ việc dân sự đó phát sinh và cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu Tòa án giải quyết chưa có điều luật để áp dụng”. Đối với những trường hợp này, Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 và BLTTDS năm 2015 đã có những hướng dẫn cho việc áp dụng nguồn thay thế BLDS được quy định tại khoản 2 Điều 6 BLDS năm 2015: “Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều này thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ, lẽ công bằng”. Nguyên tắc này cũng được đề cập tại Điều 45 BLTTDS năm 2015 để hướng dẫn Tòa án xét xử trong trường hợp vụ việc dân sự chưa có điều luật để áp dụng.

Theo đó, đối với những trường hợp không có thoả thuận, không có điều luật áp dụng, BLDS năm 2015 và BLTTDS năm 2015 thống nhất áp dụng các nguồn bổ sung khác bao gồm: Tập quán, tương tự pháp luật, nguyên tắc cơ bản, án lệ và cuối cùng lẽ công bằng. Như vậy, lẽ công bằng được xem là dự liệu cuối cùng trong trường hợp vụ việc dân sự không có quy định pháp luật điều chỉnh. Về khái niệm lẽ công bằng, BLDS năm 2015 chưa giải thích thuật ngữ này, tuy nhiên BLTTDS năm 2015 lần đầu tiếp cận và đã đưa ra định nghĩa khái quát như sau: “Lẽ công bằng được xác định trên cơ sở lẽ phải được mọi người trong xã hội thừa nhận, phù hợp với nguyên tắc nhân đạo, không thiên vị và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ việc dân sự đó” (khoản 3 Điều 45). Như vậy, lẽ công bằng phải được tiếp cận trên ba phương diện: (1) Lẽ phải được mọi người trong xã hội thừa nhận; (2) Phù hợp với nguyên tắc nhân đạo; (3) Không thiên vị, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ.

Tuy nhiên, áp dụng lẽ công bằng không phải là một điều dễ dàng khi việc nhận thức và vận dụng trên thực tế không thống nhất, phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Trình độ, chuyên môn; tính cẩn trọng; nhân phẩm và lương tâm… từ người áp dụng pháp luật sẽ quyết định việc áp dụng lẽ công bằng có thật sự hiệu quả hay không. Tại Việt Nam trong thời gian qua nhiều vụ án, thậm chí cả án lệ đã có những vận dụng linh hoạt lẽ công bằng trong việc kịp thời giải quyết các tranh chấp dân sự, nhưng bên cạnh đó còn bộc lộ một số hạn chế nhất định trong thực tiễn áp dụng pháp luật.

1. Thực tiễn áp dụng lẽ công bằng trong xét xử một số vụ án dân sự tại Việt Nam

Kể từ thời điểm BLDS năm 2015 chính thức có hiệu lực, đã có nhiều Tòa án áp dụng lẽ công bằng trong xét xử các vụ việc về hôn nhân gia đình, hợp đồng, thừa kế, tranh chấp về quyền sử dụng đất… Chúng tôi nêu ra 03 vụ án điển hình trong thực tiễn để bình luận về tính phù hợp của việc áp dụng lẽ công bằng trong giải quyết tranh chấp dân sự hiện nay.

- Áp dụng lẽ công bằng trong giải quyết tranh chấp ly hôn, nuôi con và chia tài sản chung:

Nội dung vụ án: Nguyên đơn là chị A và bị đơn là anh K kết hôn vào năm 2011, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện U, tỉnh C. Sau một thời gian chung sống, vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, anh K thường ghen tuông, đánh đập chị A nên vợ chồng đã sống ly thân từ ngày 25/11/2017 cho đến nay. Nay chị A yêu cầu Tòa án nhân dân huyện C giải quyết cho chị được ly hôn với anh K, anh K đồng ý. Về con chung: Hai người có hai con chung đang sống với chị A. Sau khi ly hôn chị A yêu cầu nuôi cả hai con, không yêu cầu cấp dưỡng. Về tài sản chung: Khi cha mẹ xây dựng nhà, hai người có đóng góp tài sản 470 triệu đồng. Khi ly hôn chị A yêu cầu được chia 1⁄4 giá trị căn nhà. Tại phiên tòa, chị A rút lại yêu cầu, chỉ yêu cầu cha mẹ hỗ trợ khó khăn là 30 triệu đồng.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm đã áp dụng lẽ công bằng trong nhận định về vấn đề con chung khi ly hôn: Xét thấy anh K có kinh tế ổn định, nhưng công việc phải thường xuyên vắng nhà, chị A thì điều kiện kinh tế sẽ khó khăn khi phải trực tiếp nuôi hai con. Anh K cho rằng trong quá trình giải quyết việc ly hôn, anh có đến nhà chị A để thăm con nhưng bị ngăn cản. Tuy nhiên, đây chỉ là lời trình bày của anh K, chưa có đủ cơ sở cho rằng chị A ngăn cản việc anh K thăm nom con. Do đó, vì lẽ công bằng, giao cho anh K và chị A mỗi người trực tiếp nuôi một người con, không ai phải cấp dưỡng nuôi con là phù hợp.

Trong ví dụ nêu trên, theo quan điểm của chúng tôi, lẽ công bằng được vận dụng trong tình huống này không thật sự phù hợp khi việc xác định người nuôi dưỡng con cái sau ly hôn, do vẫn có thể áp dụng linh hoạt các quy định của Luật hôn nhân và gia đình (Luật HN&GĐ) năm 2014 điều chỉnh. Theo đó, Điều 81 luật này quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con”.

Vận dụng trong vụ án này, hai cháu Nhã K (sinh năm 2014) và Phú Q (sinh năm 2015) tính đến thời điểm xét xử đã trên 36 tháng tuổi không thuộc trường hợp: “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi” theo khoản 3 Điều 81 Luật HN&GĐ năm 2014, nên trong trường hợp này, cả hai vợ chồng anh K và chị A đều có quyền nuôi con khi ly hôn. Xét về điều kiện kinh tế và tinh thần, cả anh K và chị A đều không đủ điều kiện nuôi cùng một lúc cả hai con như nhận định: Anh K làm kinh tế ổn định nhưng công việc phải thường xuyên vắng nhà (không đảm bảo điều kiện về tinh thần và dành thời gian chăm sóc cả hai con); chị A thì có thu nhập không thể đảm bảo điều kiện về kinh tế nên sẽ khó khăn khi phải trực tiếp nuôi hai con. Vì vậy, trong trường hợp này Tòa án cần áp dụng khoản 1 Điều 71, Điều 81 Luật HN&GĐ năm 2014 và điều kiện thực tế để giải quyết mỗi bên nuôi một cháu và không yêu cầu cấp dưỡng lẫn nhau là phù hợp. Việc sử dụng lẽ công bằng trong trường hợp này khi vẫn có các quy định pháp luật điều chỉnh là chưa phù hợp với thứ tự áp dụng nguồn trong giải quyết quan hệ dân sự theo khoản 2 Điều 6 BLDS năm 2015 và Điều 45 BLTTDS năm 2015.

- Áp dụng lẽ công bằng trong giải quyết tranh chấp hợp đồng đặt cọc:

Nội dung vụ án: Ngày 30/5/2017, ông N được Ủy ban nhân dân (UBND) huyện A cấp một nền đất tái định cư với diện tích 87,7m2 tại đường D4, Trung tâm thương mại xã B, huyện A, tỉnh S. Đến ngày 02/01/2018, vợ chồng ông N có chuyển nhượng cho ông M phần đất nêu trên với giá 400 triệu đồng, hai bên có làm giấy biên nhận để chuyển nhượng, sau đó ông M đã đặt cọc là 380 triệu đồng, còn lại 20 triệu đồng thỏa thuận khi nào xong thủ tục chuyển tên sở hữu cho ông M thì ông M sẽ giao số tiền còn lại. Trong thời gian chờ đợi Công ty P giao bằng khoán thì ông N còn yêu cầu ông M chuyển tiền vào tài khoản của Công ty P với số tiền 324 triệu đồng để Công ty làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) cho ông N, sau đó ông N sẽ làm thủ tục sang tên cho ông M, nhưng sau đó vợ chồng ông N vẫn không hoàn tất thủ tục sang tên cho ông M, nên ông M khởi kiện yêu cầu ông N tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng, trường hợp không thực hiện thì buộc bồi thường.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông M đối với ông N. Tuyên bố hợp đồng đặt cọc giữa ông M với ông N bị vô hiệu; buộc ông N có nghĩa vụ hoàn trả cho ông M số tiền 380 triệu đồng và bồi thường thiệt hại 291 triệu đồng, tổng cộng là 671 triệu đồng; buộc Công ty P hoàn trả cho ông M số tiền 324 triệu đồng.

Sau đó, Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm tuyên bố thỏa thuận đặt cọc giữa ông M với ông N vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật theo điểm c khoản 1 Điều 117, Điều 122 và Điều 123 BLDS năm 2015. Buộc ông N có nghĩa vụ trả cho ông M số tiền đặt cọc 380 triệu đồng và số tiền lãi phát sinh 110 triệu đồng, tổng cộng là 409 triệu đồng và buộc Công ty P có nghĩa vụ trả cho ông M số tiền 324 triệu đồng.

Trong phần nhận định lẽ công bằng được Hội đồng xét xử (HĐXX) lập luận, theo đó: Pháp luật chỉ quy định về việc bên nhận đặt cọc không bị phạt cọc khi hợp đồng chuyển nhượng không được giao kết theo thỏa thuận do nguyên nhân khách quan (Án lệ số 25/2018/AL); hoặc bên nhận đặt cọc bị phạt cọc khi hợp đồng chuyển nhượng không được giao kết theo thỏa thuận do lỗi hoàn toàn của bên nhận đặt cọc, hoặc bên đặt cọc bị mất cọc khi hợp đồng chuyển nhượng không được giao kết theo thỏa thuận do lỗi hoàn toàn của bên đặt cọc (khoản 2 Điều 328 BLDS năm 2015), pháp luật chưa có quy định trong trường hợp cả bên nhận đặt cọc và bên đặt cọc đều có lỗi thì xử lý số tiền đặt cọc và xác định việc phạt cọc như thế nào. Tuy pháp luật chưa có quy định nhưng theo khoản 2 Điều 328 BLDS năm 2015 bên nhận đặt cọc có lỗi phải bị phạt cọc, bên đặt cọc có lỗi phải bị mất cọc và mức độ lỗi của hai bên là ngang nhau (mỗi bên 50%) thì trong trường hợp này bên nhận đặt cọc là ông N, phải có nghĩa vụ hoàn trả cho bên đặt cọc là ông M số tiền đặt cọc 380 triệu đồng là phù hợp với lẽ công bằng, được quy định tại khoản 3 Điều 45 BLTTDS năm 2015. Vấn đề bồi thường thiệt hại cho ông M, HĐXX nhận định không có cơ sở và không xem xét giải quyết với lập luận việc bồi thường do hợp đồng đặt cọc vô hiệu phải dựa trên sự thoả thuận của các bên về mức phạt cọc mà không dựa trên việc tính chênh lệch giá trị quyền sử dụng đất bởi vì đây không phải là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Trong vụ án này, theo quan điểm của chúng tôi có những điểm chưa thoả đáng. Đối với việc nhận định chưa có quy định áp dụng trong trường hợp cả bên nhận đặt cọc và bên đặt cọc đều có lỗi chưa thật sự phù hợp, bởi trên thực tế tại Điều 2.4 Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình đã có hướng dẫn đối với trường hợp cả hai bên đều có lỗi dẫn đến hợp đồng vô hiệu mặc dù chỉ có quy định đối với hợp đồng mua bán nhà ở nhưng có thể áp dụng đối với hợp đồng đặt cọc với tư cách một hợp đồng phụ bảo đảm cho hợp đồng chính. Ngoài ra, trong trường hợp này Tòa án nhận định cả hai bên đều có lỗi dẫn đến thỏa thuận đặt cọc vô hiệu, nhưng chưa có cơ sở thuyết phục để xác định mức độ lỗi ngang nhau (mỗi bên 50%). Vì nếu xét về lỗi, rõ ràng phía ông N có hai lỗi, thứ nhất đất chưa có GCNQSDĐ đã tự ý đưa vào giao dịch; thứ hai không thông báo cho những người đồng sở hữu đất tái định cư của hộ; phía bên đặt cọc có lỗi duy nhất là thực hiện giao kết hợp đồng với người có đất nhưng chưa được cấp GCNQSDĐ, không có trách nhiệm phải biết hay thông báo đến các người con của ông N. Bên cạnh đó, ông M đã thực hiện việc đặt cọc lên đến 90% giá trị và thanh toán tổng số tiền 704 triệu đồng cho một mảnh đất trị giá 400 triệu. Do đó, việc Tòa án phúc thẩm nhận định không có căn cứ để xem xét vấn đề bồi thường, mặc dù có xem xét yếu tố về lãi đối với tiền cọc (tuy nhiên đây là yêu cầu tự nguyện do phía ông N được Tòa án chấp nhận), theo chúng tôi là chưa thật sự thuyết phục và đảm bảo quyền lợi cho ông M. Vì kể cả khi các bên có lỗi tương đương nhau, nếu có thiệt hại thì Toà án vẫn phải tính thiệt hại để các bên bồi thường cho nhau không kể đó là hợp đồng đặt cọc (hợp đồng phụ) hay hợp đồng GCNQSDĐ (hợp đồng chính) theo quy định tại khoản 4 Điều 131 BLDS năm 2015.

- Áp dụng lẽ công bằng trong vụ án yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:

Nội dung vụ án: Anh V và chị H kết hôn hợp pháp năm 2009, vợ chồng có 02 con chung là Đinh Thị Hồng G, sinh 01/3/2010 và Đinh Tùng K, sinh ngày 15/12/2015.

Chị H và anh V đã ly hôn ngày 06/2/2020 do trong quá trình chung sống chị H đã vi phạm nghĩa vụ vợ chồng và có quan hệ với người khác sinh ra cháu K. Nay anh V cho rằng chị H không chung thuỷ và có hành vi gian dối trong hôn nhân làm cho anh V phải nuôi cháu K từ tháng 12/2015 đến tháng 3/2020 là 4 năm 3 tháng (51 tháng) nhưng không phải con ruột của anh (đã tiến hành giám định ADN), anh V yêu cầu bồi thường về tinh thần và tiền công chăm sóc với tổng số tiền là 121 triệu đồng. Về phía chị H thừa nhận cháu K là con của người khác nhưng theo chị H đã được anh V chấp nhận, anh V cũng đồng ý nuôi, tại phiên tòa, chị H chỉ chấp nhận bồi thường cho anh V chi phí nuôi cháu K là 50 triệu đồng.

Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 3, khoản 2 Điều 6 BLDS năm 2015; khoản 2 Điều 4, Điều 45 BLTTDS năm 2015 nhận định hiện chưa có quy định pháp luật cũng như án lệ về vụ việc tương tự liên quan đến bồi thường tổn thất nuôi con vì một bên ngoại tình. Tuy nhiên, HĐXX nhận định áp dụng “lẽ công bằng” trong trường hợp này để xem xét yêu cầu bồi thường thiệt hại của anh V là có cơ sở dựa trên lẽ phải, bình đẳng, được xã hội thừa nhận. Ngoài ra, HĐXX nhận định chị H không đưa ra được chứng cứ nào chứng minh rằng anh V chấp nhận nuôi con. Do đó, HĐXX tuyên buộc chị H phải bồi thường cho anh V số tiền thiệt hại là 96 triệu đồng.

Về việc áp dụng lẽ công bằng trong vụ việc này, theo quan điểm của chúng tôi là phù hợp và thuyết phục, bởi lẽ:

Một là, pháp luật chưa có quy định và không có dự nguồn bổ sung cho quan hệ tranh chấp này. Theo đó, yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đối với tổn thất về tinh thần và công sức nuôi con hiện chưa có quy định pháp luật điều chỉnh, không có tập quán, án lệ nên Tòa án áp dụng lẽ công bằng để giải quyết vụ án là có căn cứ phù hợp với khoản 2 Điều 6 BLDS năm 2015.

Hai là, nội hàm “lẽ phải” trong lẽ công bằng đã được HĐXX lý giải thuyết phục. Theo đó, HĐXX nhận định: “Hoạt động của con người là hoạt động có ý thức, mọi việc làm đều có mục đích. Anh Đinh Hồng V nuôi dưỡng chăm sóc cháu Đinh Tùng K là được hưởng lợi về mặt tình cảm và trông cậy lúc tuổi già, nhưng mục đích ấy đã không đạt được. Vì vậy, người gây thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường là phù hợp với quy định chung của pháp luật và vì lẽ công bằng”. Lẽ phải trong trường hợp này được dẫn chứng thuyết phục trên cơ sở lập luận về mục đích hôn nhân và mưu cầu hạnh phúc cơ bản trong quan hệ hôn nhân - gia đình nhưng không được đảm bảo bởi sự lừa dối có chủ đích của chị H. Điều này gây ra thiệt hại vật chất và tinh thần cho anh V và “được mọi người trong xã hội thừa nhận” trên cơ sở bình đẳng, không thiên vị.

Ba là, dựa trên cơ sở lẽ công bằng có đủ căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp này. Căn cứ khoản 1 Điều 584, Điều 585 và Điều 592 BLDS năm 2015, chị H có trách nhiệm bồi thường thiệt hại vì: (1) Có hành vi trái pháp luật, chị H vi phạm nghĩa vụ vợ chồng theo khoản 1 Điều 19 Luật HN&GĐ năm 2014 “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”; (2) Có thiệt hại thực tế xảy ra, anh V bị tổn thương về danh dự, nhân phẩm, uy tín lẫn tài sản khi bị lừa dối nuôi cháu K không phải con ruột của mình (có căn cứ xác định chi phí nuôi dưỡng, chi phí sinh con, tiền công chăm sóc và tổn thất tinh thần); (3) Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm nghĩa vụ hôn nhân của chị H với thiệt hại về tinh thần và tài sản cho anh V xảy ra từ hành vi lừa dối này.

Bốn là, phù hợp với quan điểm áp dụng lẽ công bằng trong xét xử các vụ án dân sự trên thế giới về bồi thường thiệt hại do lừa dối của một bên trong hôn nhân và quan hệ con cái. Ví dụ như: Vụ án yêu cầu bồi thường thiệt hại do lừa dối trong hôn nhân tại Anh của Richard Rodwell với Helen vào năm 2008, khi người vợ Helen lừa dối Rodwell nuôi cả hai người con riêng của vợ với nhân tình trong suốt 17 năm, cho đến năm 2011 ông Rodwel đã thắng kiện và được nhận 12.500 bảng cho mỗi đứa con và khoản bồi thường 25.000 bảng Anh về tổn thất tinh thần cũng như chi phí nuôi dưỡng hai con của vợ. Hay trường hợp Tòa án quận Victoria vào năm 2002 đã trao cho ông Magill 70.000 đô la tiền bồi thường thiệt hại tinh thần và tổn thất kinh tế đối với vợ cũ của ông do kết quả xét nghiệm DNA vào năm 2000 cho thấy chỉ một trong ba đứa trẻ mà ông đang nuôi dưỡng là con ruột. Thậm chí, điều này đã làm thay đổi lập pháp tại Úc khi Dự luật sửa đổi Luật gia đình của Úc được thông qua năm 2005 cho phép nam giới đòi lại tiền và tài sản thông qua phán quyết Toà án trong trường hợp cha con bị quy kết sai.

Từ những phân tích nêu trên, so với hai vụ án chúng tôi đã phân tích trước đó, có thể nói việc HĐXX vận dụng lẽ công bằng trong trường hợp này được đánh giá cần thiết và phù hợp, theo quan điểm của chúng tôi có thể đề xuất cân nhắc nội dung phán quyết này trở thành án lệ để áp dụng trong các tranh chấp tương tự.

2. Những vấn đề đặt ra từ quy định đến thực tiễn áp dụng lẽ công bằng trong giải quyết tranh chấp dân sự tại Việt Nam

Qua việc phân tích ba vụ án thực tiễn nêu trên, có thể nhận thấy “lẽ công bằng” đã được Toà án áp dụng trong hoạt động xét xử các vụ việc dân sự khi không có pháp luật dân sự và các dự nguồn bổ sung khác điều chỉnh. Tuy nhiên, từ quy định đến thực tiễn áp dụng trong giải quyết tranh chấp dân sự hiện nay vẫn còn tồn tại một số vấn đề đặt ra:

Thứ nhất, nội hàm lẽ công bằng chưa được hiểu và vận dụng phù hợp. Việc thiếu các quy định giải thích các điều kiện và lẽ công bằng gây ra sự nhìn nhận và áp dụng lẽ công bằng khác nhau của Toà án mà điều này nhận thấy rất rõ qua hai trường hợp: Đối với vụ án thứ nhất, Tòa án không lý giải cơ sở áp dụng lẽ công bằng dựa trên nguyên tắc hay một trình tự áp dụng nào; vụ án thứ hai, Tòa án cũng không phân tích yếu tố nội hàm “lẽ phải” và phù hợp với nguyên tắc nhân đạo và bình đẳng trong trường hợp này chỉ tập trung lý giải về việc “không có quy định pháp luật” áp dụng.

Thứ hai, áp dụng lẽ công bằng thiếu nhất quán về thứ tự quy trình áp dụng. Theo Điều 6 BLDS năm 2015 nếu không có sự thoả thuận, không có quy định pháp luật, tập quán, tương tự pháp luật, nguyên tắc, án lệ thì mới áp dụng lẽ công bằng làm dự nguồn cuối cùng. Điều này có nghĩa là các quy định pháp luật được ưu tiên áp dụng, tuy nhiên trên thực tế tình trạng áp dụng lẽ công bằng tuỳ tiện mặc dù đã có quy định pháp luật điều chỉnh. Ví dụ như vụ án thứ nhất đã nêu ở phần trước, có thể vận dụng các quy định pháp luật HN&GĐ để giải quyết vấn đề nuôi con nhưng HĐXX vẫn áp dụng lẽ công bằng nhưng không giải thích thuyết phục. Nhưng đối với những trường hợp như vậy, hiện nay cũng không có hướng dẫn cho Tòa án áp dụng và nếu không tuân thủ trình tự đó thì phán quyết đó có bị huỷ ở cấp cao hơn, mặc dù kết quả giải quyết nội dung cuối cùng không có thay đổi. 

Thứ ba, cần khuyến khích việc áp dụng lẽ công bằng. Việc áp dụng lẽ công bằng trong xét xử hiện nay còn khá ít hoặc có sử dụng nhưng không giải thích, lý giải trong phần nhận định. Điều này xuất phát từ việc thiếu các quy định hướng dẫn cụ thể về cách thức áp dụng lẽ công bằng và tâm lý ngại áp dụng vì việc vận dụng còn phụ thuộc nhiều vào năng lực, phẩm chất, trình độ của Thẩm phán.

Thứ tư, cần cân nhắc đề xuất và tuyển chọn một số bản án áp dụng lẽ công bằng trở thành án lệ làm cơ sở giải quyết các trường hợp tương tự. Lẽ công bằng phụ thuộc nhiều vào sự nhìn nhận, đánh giá “lẽ phải” của HĐXX không mang tính bắt buộc trong áp dụng đối với các tình huống pháp lý tương tự như án lệ, nên nếu rơi vào một vụ việc có tính chất pháp lý tương tự mỗi Toà án có thể nhìn nhận khác nhau mà không áp dụng lẽ công bằng đối với trường hợp này. Ví dụ: Đối với ví dụ về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, nếu có một tình huống pháp lý tương tự thì việc áp dụng lẽ công bằng hay không phụ thuộc hoàn toàn vào HĐXX, mà điều này có thể ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của đương sự nếu HĐXX không vận dụng lẽ công bằng. Trên thực tế đã có những án lệ được công bố trên cơ sở các bản án áp dụng lẽ công bằng phù hợp như: Án lệ số 04/2016/AL, Án lệ số 07/2016/AL, Án lệ số 16/2017/AL, Án lệ số 35/2020/AL, Án lệ 41/2021/AL.

Lẽ công bằng đóng vai trò rất lớn trong việc giúp Toà án có cơ sở thực thi công lý và lẽ phải, tuy nhiên từ quy định đến nhận thức và áp dụng vào thực tiễn lẽ công bằng vẫn còn gặp khó khăn, vướng mắc. Vì vậy, để việc áp dụng hiệu quả hơn lẽ công bằng trong thời gian tới, đòi hỏi phải có sự thay đổi lớn về tư duy, nhận thức của người tiến hành tố tụng; cần khuyến khích và mạnh dạn hơn trong áp dụng lẽ công bằng cũng như cần thiết ban hành một quy chuẩn hướng dẫn quy trình áp dụng lẽ công bằng trong những trường hợp nhất định. Đây là một quá trình lâu dài, nhưng hoàn toàn khả thi đóng góp cho việc giải quyết các tranh chấp dân sự hiệu quả, toàn diện và công bằng.

Nguyễn Văn Phúc - Lê Thị Diệu Chi - Đỗ Thị Diện

Bàn về hình phạt cảnh cáo đối với người chưa thành niên phạm tội

(Kiemsat.vn) - Bài viết phân tích, bình luận quy định về hình phạt cảnh cáo đối với người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và đề xuất tiếp tục quy định, mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt này đối với người chưa thành niên phạm tội trên cơ sở so sánh với các quy định của pháp luật quốc tế và kinh nghiệm lập pháp của một số quốc gia.
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang