Kỹ năng kiểm sát xác minh điều kiện thi hành án dân sự
(kiemsat.vn) Trong những năm qua, Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm sát việc xác minh điều kiện thi hành án dân sự, kịp thời phát hiện nhiều vi phạm pháp luật của Chấp hành viên và cơ quan Thi hành án dân sự để thực hiện quyền kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu khắc phục vi phạm pháp luật. Qua nghiên cứu những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực tiễn, bài viết chia sẻ một số kỹ năng của Kiểm sát viên khi kiểm sát việc xác minh điều kiện thi hành án dân sự.
Kinh nghiệm kiểm sát quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Kỹ năng trực tiếp kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ, trại tạm giam
Những vấn đề đặt ra đối với công tác kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành chính đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới
1. Nội dung, đối tượng kiểm sát xác minh điều kiện thi hành án dân sự
Về nội dung kiểm sát:
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả kiểm sát xác minh điều kiện thi hành án dân sự (THADS), Kiểm sát viên cần nắm rõ các quy định của pháp luật, nhận diện được các dạng vi phạm trong việc xác minh điều kiện THADS để kịp thời báo cáo, tham mưu cho lãnh đạo đơn vị ban hành kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu chấm dứt, khắc phục vi phạm hoặc rút kinh nghiệm đối với các vi phạm của Chấp hành viên, cơ quan THADS và rút ra những bài học kinh nghiệm khi kiểm sát việc xác minh điều kiện THADS.
Kiểm sát việc xác minh điều kiện THADS gồm những nội dung sau: Kiểm sát việc xác định thời hạn tự nguyện thi hành án cho đương sự theo khoản 1 Điều 45 Luật THADS năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014, 2022 (gọi tắt là Luật THADS); kiểm sát việc chấp hành thời hạn xác minh điều kiện THADS; kiểm sát về thẩm quyền, phạm vi, nội dung, biện pháp, thủ tục và kết quả xác minh điều kiện THADS; kiểm sát việc xử lý kết quả xác minh điều kiện THADS như: Phân loại hồ sơ, ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án, hoãn, đình chỉ THADS hoặc áp dụng các biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án…
Đối tượng kiểm sát việc xác minh THADS là việc tuân theo pháp luật của các chủ thể: Cơ quan THADS, Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan đến hoạt động xác minh điều kiện THADS.
2. Một số kỹ năng kiểm sát việc xác minh điều kiện thi hành án dân sự
2.1. Kiểm sát việc Chấp hành viên xác minh điều kiện thi hành án dân sự
Một là, xem xét hồ sơ, tài liệu:
Cơ sở kiểm sát việc xác minh điều kiện THADS trước hết là những tài liệu có trong hồ sơ THADS, thông thường gồm: Bản án, quyết định được đưa ra thi hành; quyết định thi hành án; biên bản giao trực tiếp hoặc tài liệu thể hiện việc thông báo quyết định thi hành án cho đương sự, đặc biệt là cho người phải thi hành án; biên bản giải quyết việc thi hành án; các văn bản thể hiện việc xác minh của cơ quan THADS (tài liệu xác minh trực tiếp, qua ủy quyền hoặc qua văn bản yêu cầu cung cấp thông tin), các tài liệu thể hiện việc xử lý kết quả xác minh, các tác nghiệp sau đó của Chấp hành viên...
Mục đích của việc nghiên cứu hồ sơ nhằm xác định nghĩa vụ phải thi hành của người phải thi hành án (được tuyên trong bản án, quyết định của Toà án); căn cứ thi hành án (quyết định thi hành án); xác định thời hạn tự nguyện thi hành án (tài liệu tống đạt quyết định thi hành án), đối tượng, nội dung, cách thức xác minh (tài liệu về xác minh), các biện pháp tác nghiệp từ kết quả xác minh...; căn cứ để tiến hành kiểm sát việc xác minh điều kiện THADS là những nội dung quy định tại Điều 44, Điều 45 Luật THADS. Việc kiểm sát xác minh điều kiện THADS cụ thể như sau:
- Kiểm sát về thời hạn xác minh điều kiện thi hành án dân sự:
Thời hạn xác minh bước đầu quy định tại khoản 1 Điều 44, Điều 45 Luật THADS: Khi hết thời hạn tự nguyện mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên phải xác minh điều kiện thi hành án. Theo đó, thời hạn để Chấp hành viên thực hiện xác minh phụ thuộc vào thời hạn tự nguyện thi hành của người phải thi hành án; thời hạn tự nguyện thi hành án là 10 ngày được tính từ ngày người phải thi hành án nhận được quyết định thi hành án hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án. Kể từ ngày hết thời hạn tự nguyện thì Chấp hành viên có tối đa 10 ngày sau đó để thực hiện xác minh điều kiện thi hành án, trường hợp Chấp hành viên xác minh khi chưa hết thời hạn tự nguyện hoặc quá thời hạn tự nguyện đều được xác định vi phạm thời hạn xác minh (trừ trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời).
Như vậy, ngay từ khi tiếp nhận quyết định thi hành án, cần kiểm sát tính hợp pháp của quyết định, việc thực hiện thông báo về thi hành án để có cơ sở cho việc kiểm sát quá trình xác minh điều kiện thi hành án, đồng thời kiểm sát các tác nghiệp khác của Chấp hành viên để nắm chắc tình hình kết quả thi hành vụ việc, đối chiếu với quy định tại các điều 30, 35, 36, 44, 45 Luật THADS để kịp thời phát hiện vi phạm, yêu cầu khắc phục (nếu có). Từ đó, Kiểm sát viên xác định có hay không có vi phạm về căn cứ và thời hạn xác minh, đặc biệt là vi phạm trong việc ấn định thời hạn tự nguyện thi hành án.
Thời hạn xác minh lại được quy định tại khoản 5 Điều 44 Luật THADS: Chấp hành viên tiến hành xác minh lại trong các trường hợp: Xét thấy cần thiết, khi có kết quả xác minh do người được thi hành án cung cấp khác kết quả xác minh của Chấp hành viên; và/hoặc do Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) kháng nghị về vi phạm dẫn đến sai lệch kết quả xác minh điều kiện thi hành án. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được kết quả xác minh về điều kiện thi hành án do người được thi hành án hoặc người mà được được thi hành án ủy quyền cung cấp; hoặc ngày nhận được kháng nghị của VKSND, Chấp hành viên phải tiến hành xác minh lại.
Về kiểm sát hoạt động này, pháp luật không quy định việc gửi kết quả tự xác minh của người được thi hành án cho VKSND hoặc quy định việc cơ quan THADS phải thông báo việc nhận kết quả xác minh của người được thi hành án cho VKSND. Do đó, nếu không thuộc trường hợp VKSND kháng nghị, thì khi kiểm sát xác minh lại cần xác định ngày cơ quan THADS nhận thông tin về điều kiện thi hành án để xác định có hay không vi phạm về thời hạn xác minh lại.
Thời hạn xác minh điều kiện thi hành án đối với những trường hợp đã có quyết định chưa có điều kiện thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 44 Luật THADS và Điều 9 Nghị định số 62/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 33/2020): Kiểm sát việc xác minh theo định kỳ của Chấp hành viên ít nhất 06 tháng một lần, trường hợp người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù mà thời gian chấp hành còn từ 02 năm trở lên hoặc không xác định được địa chỉ, nơi cư trú thì thời hạn xác minh lại ít nhất là 01 năm. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản thông tin mới về điều kiện thi hành án, Chấp hành viên phải tiến hành xác minh lại theo quy định tại khoản 2 Điều 44 Luật THADS và khoản 4 Điều 9 Nghị định số 62/2015.
Thời hạn trả lời ủy quyền xác minh điều kiện thi hành án quy định tại khoản 3 Điều 44 Luật THADS và khoản 2 Điều 9 Nghị định số 62/2015 (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 33/2020): Đối với bất động sản và động sản phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng, thời hạn trả lời kết quả xác minh là 30 ngày hoặc có thể kéo dài trong thời hạn không quá 45 ngày nếu trường hợp xác minh tài sản gặp khó khăn, vướng mắc; đối với các loại tài sản khác và thông tin khác, thời hạn trả lời kết quả xác minh dài nhất là 15 ngày, kể từ ngày nhận được ủy quyền.
Thời hạn trả lời phối hợp xác minh quy định tại khoản 6 Điều 44 Luật THADS: Khác với ủy quyền xác minh điều kiện thi hành án, phối hợp xác minh là quy định về trách nhiệm của cơ quan THADS và các cơ quan chức năng có liên quan, khi cơ quan THADS yêu cầu phối hợp. Theo đó, trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu của Chấp hành viên yêu cầu cung cấp thông tin về tài sản của người phải thi hành án để phục vụ việc xác minh điều kiện thi hành án, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải trả lời bằng văn bản cho cơ quan THADS đã có công văn yêu cầu, nếu không thuộc trường hợp Chấp hành viên lập biên bản xác minh trực tiếp. Ngoài ra, nhằm bảo đảm quyền tự xác minh của người được thi hành án, điểm c khoản 6 Điều 44 Luật THADS quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý thông tin về tài sản, tài khoản của người phải thi hành án phải cung cấp cho người được thi hành án hoặc người được ủy quyền của người được thi hành án trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu, trừ trường hợp bất khả kháng.
- Kiểm sát về đối tượng, nội dung xác minh điều kiện thi hành án dân sự:
Xác định đối tượng được thi hành án, phải thi hành án, trường hợp người phải thi hành án là cá nhân: Theo Điều 44 Luật THADS, văn bản về xác minh điều kiện thi hành án phải đảm bảo cả về nội dung (kết quả xác minh của Chấp hành viên phải thể hiện được tài sản, thu nhập hợp pháp, điều kiện thi hành khác của người phải thi hành án) và hình thức, thủ tục (khi xác minh tại địa phương phải có xác nhận của đại diện Ủy ban nhân dân (UBND) hoặc Công an cấp xã; tại cơ quan, tổ chức người phải thi hành án làm việc thì phải có xác nhận của đại diện cơ quan, tổ chức, xác nhận của cá nhân nơi tiến hành xác minh). Nếu người phải thi hành án là cơ quan, tổ chức thì ngoài việc xác minh điều kiện thi hành án như của cá nhân thì hoạt động của cơ quan, tổ chức là cơ sở để xác định điều kiện thi hành án, thể hiện qua hệ thống sổ sách và các thông tin hoạt động tại các cơ quan chức năng. Ngoài việc phải xác minh tài sản hữu hình thuộc sở hữu của cơ quan, tổ chức, khi xác minh điều kiện thi hành án, Chấp hành viên phải xem hồ sơ, tài liệu, việc quản lý vốn, hoạt động sản xuất, kinh doanh, nguồn kinh phí... theo điểm d khoản 4 Điều 44 Luật THADS.
Xác định nội dung phải thi hành theo bản án, quyết định của Tòa án và đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (nếu là việc thi hành án theo đơn): Nghĩa vụ về tiền, tài sản hay buộc thực hiện hoặc không thực hiện công việc nhất định…; thời điểm phải thi hành nghĩa vụ (cần chú ý đến nghĩa vụ theo định kỳ để có cách thức xử lý phù hợp); nghĩa vụ liên đới hay độc lập? Có được bảo đảm bằng tài sản hay không? Đối với việc thi hành nghĩa vụ liên quan đến tài sản nói chung thì phải xác định tài sản của người phải thi hành án ở địa phương (để có cơ sở thực hiện việc ủy quyền xác minh và ủy thác nếu người phải thi hành án có tài sản ở nơi khác); cần lưu ý nếu tài sản thuộc diện phải đăng ký quyền sử dụng, sở hữu thì ngoài việc xác minh ở địa phương, Chấp hành viên phải xác minh tại cơ quan đăng ký, cơ quan tổ chức nắm giữ thông tin, xác minh làm rõ tình trạng thực tế của tài sản, có thuộc tài sản chung hay tài sản đang có tranh chấp quyền sở hữu, sử dụng với người thứ ba…, để kiểm sát việc xác minh toàn diện của Chấp hành viên vì chỉ khi Chấp hành viên xác minh được cụ thể đối tượng thi hành án thì mới có biện pháp tác nghiệp đúng đắn đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người liên quan trong quá trình tổ chức thi hành án. Căn cứ vào nghĩa vụ thi hành án được ghi trong bản án và quyết định thi hành án, Kiểm sát viên xác định đối tượng, phạm vi và những vấn đề liên quan cần xác minh. Từ đó đối chiếu với hoạt động xác minh của Chấp hành viên, xác định nội dung nào cần yêu cầu xác minh thêm để làm rõ điều kiện thi hành án.
Như vậy, trong quá trình kiểm sát việc xác minh điều kiện THADS, Kiểm sát viên cần nắm chắc hồ sơ, đặc biệt là nội dung cơ bản mà Chấp hành viên cần xác minh như: Nhân thân của người phải thi hành án; điều kiện tài sản của người phải thi hành án; quan điểm của chính quyền địa phương; các điều kiện khác phát sinh để thực hiện những thủ tục tiếp theo trong quá trình tổ chức thi hành vụ việc, để kiểm sát chặt chẽ việc tổ chức thi hành án, cũng như đảm bảo việc xác minh điều kiện thi hành án và tổ chức thi hành vụ việc được kịp thời, hiệu quả và tuân thủ trình tự, thủ tục pháp luật quy định.
Kiểm sát xác minh trong một số trường hợp cụ thể:
Kiểm sát việc xác minh đối với tài sản là bất động sản là đối tượng xử lý để thi hành án, nhất là quyền sử dụng đất, nhà ở: Kiểm sát viên xem xét tài liệu thể hiện việc xác minh của Chấp hành viên về tình trạng của nhà, đất như: Nhà đất thuộc quyền sở hữu, sử dụng của ai, là tài sản chung hay riêng; xác định người đang quản lý, sử dụng tài sản; vị trí, diện tích nhà đất được cấp trong giấy chứng nhận và thực tế hiện trạng; có được phép chuyển quyền sở hữu, sử dụng không? Có thể phân chia không; giá trị ước tính của tài sản (để đảm bảo nguyên tắc kê biên tài sản tương ứng với nghĩa vụ thi hành án của người phải thi hành án); tài sản có thế chấp, bảo lãnh hay có nằm trong quy hoạch hoặc có bị tranh chấp không?...
Trường hợp có thông tin người phải thi hành án đã bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh nhà đất cho người khác thì Kiểm sát viên phải xem xét nội dung xác minh về việc Chấp hành viên có yêu cầu đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan xuất trình các hợp đồng, văn bản chứng minh việc chuyển dịch, xem xét tính hợp pháp của giao dịch đó, cần chú ý thời điểm diễn ra giao dịch. Trường hợp người phải thi hành án chuyển dịch hoặc thế chấp, cầm cố tài sản cho người khác mà không sử dụng khoản tiền thu được và không còn tài sản khác để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án... Những thông tin này là căn cứ để Chấp hành viên thực hiện việc cưỡng chế thi hành án theo khoản 1 Điều 24 Nghị định số 62/2015 (sửa đổi, bổ sung tại khoản 11 Điều 1 Nghị định số 33/2020).
Kiểm sát việc xác minh đối với tài sản là động sản: Kiểm sát viên cần xem xét Chấp hành viên đã thực hiện việc xác minh tài sản thuộc sở hữu của ai; người đang quản lý, sử dụng tài sản đó; tài sản thuộc sở hữu chung hay sở hữu riêng... tình trạng cụ thể của tài sản (số lượng, chất lượng, chủng loại); có bị cầm cố, thế chấp, bảo lãnh hay thuộc diện không được kê biên theo Điều 87 Luật THADS không?...
Kiểm sát việc xác minh đối với tài sản là tiền: Kiểm sát việc Chấp hành viên thực hiện xác minh số tiền của người phải thi hành án đang do tổ chức tín dụng quản lý hay do người thứ ba giữ, xác minh có hay không có việc mở tài khoản hoặc tiền gửi tiết kiệm của người phải thi hành án tại tổ chức tín dụng, nếu có thì số tiền còn trong tài khoản, sổ tiết kiệm là bao nhiêu, có thuộc diện được xử lý để thi hành án hay không? Nếu là người thứ ba đang giữ tiền của người phải thi hành án thì số tiền đó là bao nhiêu? Căn cứ xác định người thứ ba đang giữ tiền của người phải thi hành án (theo bản án, quyết định của Tòa án hoặc thông qua hợp đồng, giao dịch dân sự…). Tiền đó dùng để thực hiện công việc gì? Các nội dung cần phải chi từ số tiền đó (nếu có) để xác định thứ tự ưu tiên? Thời điểm phát sinh trách nhiệm của các bên (thời điểm các bên phải thanh toán nghĩa vụ theo hợp đồng, thời điểm nghĩa vụ đến hạn theo bản án, quyết định...).
Kiểm sát việc xác minh điều kiện thi hành án để thi hành nghĩa vụ trả vật, giấy tờ, tài sản: Kiểm sát viên kiểm sát việc Chấp hành viên có tập trung xác minh các nội dung: Vật phải giao/trả có còn không; có phải là vật đặc định hay vật cùng loại? Ai là người đang quản lý hoặc sử dụng vật phải giao; tình trạng của vật phải giao (số lượng, chất lượng, chủng loại); có gì khác với bản án, quyết định đã tuyên không? Nếu có khác là do bản án tuyên không chính xác, hay do thời gian, ngoại cảnh tác động, hay do bị phá hỏng, huỷ hoại? Ai là người phá hỏng, hủy hoại, làm giảm giá trị của vật phải giao?...
Kiểm sát việc xác minh để thi hành nghĩa vụ giao quyền sử dụng đất hoặc trả nhà, giao nhà: Quá trình kiểm sát cần nghiên cứu tài liệu về xác minh của Chấp hành viên xem đã đảm bảo các nội dung như: Nhà đất phải giao đang do ai quản lý, sử dụng (có phải là người phải thi hành án không…); giấy tờ nhà đất đang do ai nắm giữ? Các nhân khẩu hiện đang cư trú tại đây (có người già, trẻ em, các đối tượng chính sách cần quan tâm không…)? Các tài sản hiện có ở trong nhà, trên đất bao gồm những tài sản gì? Tình trạng nhà đất phải giao so với nội dung bản án, quyết định (xây dựng, sửa chữa hay phá dỡ…); nếu có thay đổi thì thời điểm thực hiện sự thay đổi đó là thời điểm nào (trước hay sau khi có bản án, quyết định); địa hình, giao thông xung quanh, mốc giới.
Kiểm sát việc xác minh nơi ở khác của người phải thi hành án (để xử lý trong trường hợp cưỡng chế giao nhà là nhà đất, là nơi ở duy nhất của người phải thi hành án): Ý thức, thái độ của người phải thi hành án và chính quyền địa phương đối với bản án, tuy nội dung này không bắt buộc nhưng nên thực hiện để việc tổ chức thi hành án được thuận lợi hơn và để Chấp hành viên nắm bắt được tình hình để lên phương án cũng như xây dựng kế hoạch cưỡng chế...
Kiểm sát việc xác minh để thi hành nghĩa vụ buộc phải thực hiện một công việc hoặc không được thực hiện một công việc nhất định: Đây là loại nghĩa vụ liên quan đến nhân thân của người phải thi hành án. Do đó, Kiểm sát viên cần kiểm sát nội dung xác minh của Chấp hành viên về chính khả năng, điều kiện thực hiện công việc của đương sự. Tuy nhiên, cần phải phân biệt nghĩa vụ có liên quan đến tài sản (như buộc tháo dỡ nhà trái phép, mở lối đi, bịt cửa sổ…) hoặc nghĩa vụ không liên quan đến tài sản (như giao con; cải chính, chấm dứt hành vi, nhận người lao động trở lại làm việc…) để có cách thức xác minh phù hợp. Nội dung xác minh thường tập trung vào các vấn đề sau: Điều kiện kinh tế để thực hiện nghĩa vụ; đặc điểm về nhân thân, ý thức, thái độ của người phải thi hành án; khả năng tự thực hiện hành vi của người phải thi hành án; trường hợp người phải thi hành án không tự thực hiện được công việc thì người khác có thể thực hiện thay được không...
Kiểm sát viên cần đặc biệt lưu ý đối với việc kiểm sát việc xác minh để thực hiện việc giao con: Đây là loại việc thi hành án tương đối phức tạp và đặc thù vì đối tượng thi hành án là con người, cụ thể là người chưa thành niên, nên yêu cầu Chấp hành viên cần thận trọng và có kế hoạch cụ thể ngay từ giai đoạn xác minh, tiếp cận với các bên đương sự. Khi kiểm sát về nội dung này, cần xem xét Chấp hành viên đã có những tác nghiệp gì ngay trong giai đoạn đầu - giai đoạn xác minh điều kiện thi hành án, như: Tìm hiểu độ tuổi, giới tính, tính cách, nơi ở, nơi học tập… của người chưa thành niên đó; xác minh đặc điểm về nhân thân, nghề nghiệp, thái độ chính trị của người phải thi hành án và người đang trực tiếp trông giữ người chưa thành niên để có biện pháp tác động người phải thi hành án, người trông giữ, nuôi dưỡng, quản lý tự nguyện giao con hoặc có biện pháp tác nghiệp khác phù hợp.
Hai là, trực tiếp xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án:
Viện kiểm sát trực tiếp xác minh nhằm đánh giá sự tuân theo pháp luật, làm rõ vi phạm, thiếu sót của Chấp hành viên, cơ quan THADS trong hoạt động xác minh điều kiện THADS. Như vậy, việc trực tiếp xác minh của Chấp hành viên và Kiểm sát viên tuy có sự giống nhau là xem xét tình trạng thực tế về điều kiện tài sản của người phải thi hành án, nhưng hoàn toàn khác nhau ở mục tiêu, giữa việc xác minh để thực hiện thủ tục thi hành án và xác minh để kiểm sát việc tổ chức thực hiện thi hành án. Mặc dù, pháp luật hiện hành chưa có quy định rõ về việc Viện kiểm sát trực tiếp xác minh điều kiện thi hành án, nhưng theo Điều 12 Luật THADS, khi kiểm sát, để có cơ sở xác định vi phạm trong hoạt động xác minh điều kiện thi hành án của Chấp hành viên thì VKSND có quyền trực tiếp xác minh. Về ý nghĩa thực tiễn, kết quả xác minh là cơ sở quan trọng để VKSND thực hiện quyền kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu khắc phục vi phạm trong xác minh điều kiện thi hành án (nếu có) của Chấp hành viên. Do đó, hoạt động này là rất cần thiết trong công tác kiểm sát, vì chỉ căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ thì nhiều trường hợp kết quả xác minh của Chấp hành viên không đúng với thực tế điều kiện thi hành án của người phải thi hành án (phổ biến trong trường hợp xác minh làm căn cứ cho việc ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án), thì kết quả xác minh của Viện kiểm sát là tài liệu chứng minh vi phạm trong xác minh điều kiện thi hành án của Chấp hành viên.
Trước khi trực tiếp thực hiện việc xác minh điều kiện thi hành án, Kiểm sát viên cần xác định trước mục đích, đối tượng, nội dung, địa điểm xác minh… nhằm làm rõ những điểm mâu thuẫn, chưa cụ thể hoặc chưa được Chấp hành viên xác minh hoặc thẩm tra tính chính xác, trung thực của Chấp hành viên trong quá trình xác minh.
Ngoài ra, khi kiểm sát việc trực tiếp xác minh điều kiện THADS của Chấp hành viên, cần xem xét trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên về cung cấp thông tin điều kiện THADS để thực hiện quyền kiến nghị theo quy định của pháp luật.
Ba là, kiểm sát việc ủy quyền xác minh điều kiện thi hành án:
Kiểm sát văn bản ủy quyền để biết được nội dung ủy quyền xác minh và văn bản trả lời của Thủ trưởng cơ quan THADS nơi nhận ủy quyền theo khoản 2 Điều 9 Nghị định số 62/2015 (sửa đổi, bổ sung tại khoản 6 Điều 1 Nghị định số 33/2020). Theo đó, văn bản ủy quyền xác minh điều kiện thi hành án do Thủ trưởng cơ quan THADS ủy quyền ký; văn bản trả lời kết quả xác minh do Thủ trưởng cơ quan THADS nhận ủy quyền ký và chịu trách nhiệm về kết quả xác minh theo nội dung ủy quyền.
Trường hợp ủy quyền xác minh điều kiện thi hành án, Kiểm sát viên phải xem xét văn bản ủy quyền để biết được nội dung ủy quyền xác minh và văn bản trả lời của Thủ trưởng cơ quan THADS nơi nhận ủy quyền. Qua đó đánh giá hoặc xác định vi phạm của cơ quan THADS về nội dung ủy quyền, thời hạn ủy quyền và nội dung xác minh, thời hạn thực hiện việc xác minh điều kiện thi hành án theo ủy quyền.
Bốn là, kiểm sát việc xác minh điều kiện thi hành án bằng văn bản:
Căn cứ khoản 6 Điều 44 và các điều của Chương VIII Luật THADS, các điều 4, 7, 8 Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-BTP-BTC-BLĐTBXH-NHNNVN ngày 14/01/2014 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Bộ Lao động thương binh và Xã hội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn việc cung cấp thông tin về tài khoản, thu nhập của người phải thi hành án và thực hiện phong tỏa, khấu trừ để THADS để kiểm sát về việc yêu cầu cung cấp và thực hiện việc cung cấp thông tin. Viện kiểm sát kiểm sát về việc yêu cầu cung cấp và thực hiện cung cấp thông tin, căn cứ thời gian trả lời văn bản yêu cầu cung cấp thông tin, văn bản cung cấp thông tin để đánh giá, xác định vi phạm về xác minh bằng văn bản. Đây là các quy định làm căn cứ để xem xét nội dung của văn bản yêu cầu cung cấp thông tin và những nội dung trong văn bản cung cấp thông tin, những tài liệu có liên quan đến tài sản của người phải thi hành án...
Năm là, kiểm sát việc xử lý kết quả xác minh điều kiện thi hành án dân sự:
Trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án thì Kiểm sát viên kiểm sát việc Chấp hành viên thực hiện việc tổ chức thi hành án, trường hợp người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án thì kiểm sát việc cơ quan THADS ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án.
Sau khi có kết quả xác minh điều kiện thi hành án, Kiểm sát viên cần kiểm sát xem Chấp hành viên đã thực hiện việc phân loại hồ sơ để có tác nghiệp tiếp theo hay chưa, cụ thể: Đối với những hồ sơ có kết quả xác minh thể hiện người phải thi hành án có điều kiện thi hành thì kiểm sát xem Chấp hành viên có thực hiện việc đôn đốc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ, vận động các bên đương sự thỏa thuận thực hiện việc thi hành án để tránh việc phải tổ chức cưỡng chế hoặc tiến hành các thủ tục để thực hiện các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án nhằm thi hành dứt điểm vụ việc.
Trường hợp căn cứ kết quả xác minh, xác định người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành thì Chấp hành viên đề xuất thủ trưởng đơn vị ban hành quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án. Khi xếp loại hồ sơ THADS về việc chưa có điều kiện thi hành thì Chấp hành viên chỉ phải thực hiện xác minh định kỳ cho đến khi hồ sơ đủ điều kiện chuyển sổ theo dõi riêng, nên việc xếp hồ sơ vào loại việc chưa có điều kiện tạo điều kiện thuận lợi cho Chấp hành viên không phải thường xuyên theo dõi và có các tác nghiệp để tổ chức thi hành án, cũng như góp phần tăng tỉ lệ giải quyết về việc và về tiền của Chấp hành viên và cơ quan THADS trong các kỳ báo cáo. Do vậy, cơ quan THADS thường vi phạm trong việc phân loại xác định việc chưa có điều kiện thi hành án, như: Việc ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án chưa đủ căn cứ do nội dung xác minh của Chấp hành viên không chính xác, không đúng thực tế khách quan hoặc việc xác minh chưa được thực hiện đầy đủ, mới xác minh qua UBND và Công an cấp xã, từ đó xác định người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành, mà không thực hiện việc xác minh tại những cơ quan hữu quan khác (văn phòng đăng ký đất đai, tổ chức tín dụng, bảo hiểm xã hội…). Các Viện kiểm sát địa phương cần chú trọng đến việc kiểm sát hoạt động của cơ quan THADS trong việc phân loại việc THADS chưa có điều kiện thi hành từ việc xác minh điều kiện thi hành án nhằm bảo đảm cho các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án được thi hành theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật THADS quy định.
Phạm Thị Thanh Hòa - Ngô Thế Vũ
Nâng cao hiệu quả khai thác dữ liệu ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh trong hỏi cung bị can phục vụ công tác điều tra vụ án hình sự
Kinh nghiệm nghiên cứu hồ sơ trong kiểm sát việc giải quyết các vụ án tranh chấp đất đai
-
1Kinh nghiệm nghiên cứu hồ sơ trong kiểm sát việc giải quyết các vụ án tranh chấp đất đai
-
2Kỹ năng kiểm sát xác minh điều kiện thi hành án dân sự
-
3Những vấn đề cần lưu ý khi kiểm sát việc thu, chi, quản lý tiền thi hành án
-
4Hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự về tội tham ô tài sản theo yêu cầu của công ước quốc tế và tham khảo kinh nghiệm của Trung Quốc
Bài viết chưa có bình luận nào.