Kinh nghiệm nghiên cứu hồ sơ trong kiểm sát việc giải quyết các vụ án tranh chấp đất đai
(kiemsat.vn) Giải quyết tranh chấp đất đai là một trong những tranh chấp dân sự phức tạp nhất trong tố tụng dân sự hiện nay, do đó, Kiểm sát viên cần nâng cao kỹ năng nghiên cứu, phân tích, đánh giá tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Xây dựng trường Đại học Kiểm sát Hà Nội trở thành cơ sở đào tạo, bồi dưỡng có chất lượng, uy tín cao trong lĩnh vực pháp luật
Truyện ngắn: Vụ án đêm 30 Tết
Hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi
Tranh chấp đất đai thường biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau như tranh chấp về quyền sử dụng đất, tranh chấp về ranh giới đất, tranh chấp lối đi chung, tranh chấp di sản thừa kế là nhà đất, tranh chấp quyền sử dụng đất trong các vụ án hôn nhân gia đình... Tính chất phức tạp của tranh chấp đất đai không chỉ dừng lại ở khía cạnh mâu thuẫn về lợi ích kinh tế, dân sự, mà trong nhiều trường hợp có thể là nguyên nhân dẫn đến các vụ án hình sự, gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự xã hội.
Giải quyết tranh chấp đất đai là một trong những tranh chấp dân sự phức tạp nhất trong tố tụng dân sự hiện nay, do đó, Kiểm sát viên cần nâng cao kỹ năng nghiên cứu, phân tích, đánh giá tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Từ thực tiễn công tác, tác giả rút ra một số kinh nghiệm trong nghiên cứu hồ sơ giải quyết các vụ án tranh chấp đất đai sau đây:
- Về kiểm sát các tài liệu chứng cứ chứng minh vụ án tranh chấp đất đai đã được hòa giải ở cơ sở trước khi khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
Theo quy định của Luật đất đai năm 2013, đối với các vụ án tranh chấp đất đai thì việc tổ chức hòa giải của Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã, phường, thị trấn kết hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận hay các tổ chức xã hội khác được xem là thủ tục tiền tố tụng bắt buộc phải thực hiện trước khi đương sự khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp. Nếu không có việc hòa giải của UBND cấp xã, phường thì các đương sự sẽ bị coi là chưa đủ điều kiện khởi kiện.
Tuy nhiên, không phải mọi tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất đều phải được hòa giải trước khi khởi kiện. Theo quy định của pháp luật thì quyền của người sử dụng đất rất rộng, các dạng tranh chấp về quyền sử dụng đất rất đa dạng, như: Tranh chấp ai có quyền sử dụng đất, tranh chấp các giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, tranh chấp về hôn nhân gia đình có việc phân chia quyền sử dụng đất của vợ chồng, chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất…
Do đó, khi kiểm sát các vụ án tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, cần nghiên cứu kỹ đơn khởi kiện, lời khai các đương sự để xác định đó là tranh chấp quyền sử dụng đất hay tranh chấp khác liên quan đến quyền sử dụng đất. Nếu xác định là tranh chấp quyền sử dụng đất cần kiểm tra các chứng cứ chứng minh vụ việc đã được hòa giải ở cơ sở theo quy định của Luật đất đai hay chưa để có căn cứ yêu cầu Tòa án điều tra, xác minh bổ sung nội dung này.
Ngoài ra, khi kiểm sát nội dung này, Kiểm sát viên cần chú ý:
- Thành phần tham gia hòa giải phải đúng quy định tại khoản 3 Điều 202 Luật đất đai năm 2013 (điểm b khoản 2 Điều 235 Luật đất đai năm 2024).
- Nội dung hòa giải ở cơ sở phải phù hợp với nội dung đương sự khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp. Trường hợp đương sự đã tham gia hòa giải ở cơ sở nhưng nội dung hòa giải không trùng với nội dung khởi kiện (ví dụ nguyên đơn yêu cầu hòa giải ở cơ sở về tranh chấp ranh giới đất với ông A nhưng lại khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về ranh giới với ông B), thì cần xác định yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chưa được hòa giải ở cơ sở để trả lại đơn khởi kiện cho đương sự.
- Thời điểm hòa giải ở cơ sở: Một trong những mục đích của quy định hòa giải ở cơ sở là nhằm tạo điều kiện cho cá nhân, tổ chức thỏa thuận, hòa giải với nhau về việc giải quyết tranh chấp, hạn chế việc khiếu nại, khởi kiện đến cơ quan có thẩm quyền. Do đó, khi kiểm sát việc giải quyết các vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất, cần lưu ý thời điểm hòa giải phải được tiến hành trước thời điểm nguyên đơn khởi kiện vụ án.
- Xác định chính xác yêu cầu và phạm vi khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn và yêu cầu độc lập của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Để xác định được phạm vi và trọng tâm của vụ án, cần nghiên cứu kỹ đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung, đơn phản tố, yêu cầu độc lập của đương sự để từ đó xác định đương sự yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề gì, yêu cầu đối với ai, các tài liệu, chứng cứ mà đương sự xuất trình. Tùy từng vụ án khác nhau, đương sự có thể yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp đối với toàn bộ thửa đất hoặc một phần thửa đất. Nếu yêu cầu giải quyết một phần thửa đất phải xác định được diện tích tranh chấp bao nhiêu, ở vị trí nào.
- Xác định chính xác những tài liệu chứng cứ quan trọng cần thu thập trong từng vụ án cụ thể:
Tranh chấp quyền sử dụng đất được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: Kiện đòi lại tài sản, tranh chấp ranh giới, tranh chấp lối đi, tranh chấp đất ở, đất vườn, tranh chấp đất lâm nghiệp, tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất... Tùy từng dạng tranh chấp khác nhau cần lưu ý những tài liệu, chứng cứ khác nhau. Tuy vậy, trong những vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất nói chung thì luôn phải lưu ý các chứng cứ chứng minh nguồn gốc đất, xác định đất đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay chưa; cơ quan quản lý nhà nước về đất đai có ý kiến như thế nào, đã đo đạc, thẩm định hay chưa, diện tích đo đạc, thẩm định tại chỗ có phù hợp với diện tích trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không; nguyên nhân tăng, giảm, quy trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng quy định pháp luật hay không... Tòa án đã thu thập đủ chứng cứ hay chưa, nếu thiếu thì thiếu những chứng cứ nào, có ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc giải quyết vụ án hay không. Đây là những căn cứ để yêu cầu Tòa án xác minh bổ sung.
- Nghiên cứu hồ sơ trong kiểm sát việc giải quyết vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất luôn đảm bảo tính toàn diện, thống nhất trong một chỉnh thể:
Quá trình nghiên cứu hồ sơ, cần tập trung nghiên cứu toàn bộ các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ để nhìn nhận, đánh giá, phân tích vụ án một cách tổng thể, đa chiều, tuyệt đối không nghiên cứu hồ sơ theo kiểu “cắt xén” chứng cứ. Thông thường trong hồ sơ giải quyết vụ án tranh chấp đất đai có nhiều loại tài liệu, chứng cứ khác nhau như những tài liệu, chứng cứ liên quan đến thủ tục, trình tự tố tụng; những tài liệu, chứng cứ về nguồn gốc đất tranh chấp; sổ mục kê, sổ địa chính, hồ sơ kỹ thuật thửa đất, quy trình đo đạc thửa đất tranh chấp, quy trình, thủ tục chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất, những tài liệu, chứng cứ về thẩm định, đo đạc, định giá đất và tài sản trên đất.
Đối với những tài liệu chứng cứ nêu trên, Kiểm sát viên cần tập trung nghiên cứu theo từng mảng. Ví dụ, hồ sơ có những tài liệu, chứng cứ gì về thủ tục tố tụng (Thủ tục khởi kiện, triệu tập đương sự, tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải, xây dựng tư cách tham gia tố tụng của đương sự,...); đã đầy đủ chưa, nếu thiếu thì thiếu những chứng cứ nào, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hay không, có ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng của đương sự hay không; tài liệu, chứng cứ liên quan đến nội dung, đường lối giải quyết vụ án gồm những gì, đã đủ để làm căn cứ giải quyết vụ án hay chưa, giá trị chứng minh của chứng cứ như thế nào, có mâu thuẫn với chứng cứ khác không... Qua đó, đánh giá một cách toàn diện về việc Tòa án có tuân thủ đúng quy định của BLTTDS năm 2015 về thủ tục tố tụng không, chứng cứ thu thập được đã đủ để kết luận về đường lối giải quyết vụ án hay chưa.
- Về phân tích, đánh giá chứng cứ khi nghiên cứu hồ sơ vụ án:
Kiểm sát viên cần xác định thửa đất tranh chấp đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chưa. Nếu chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì các bên đương sự xuất trình được tài liệu, chứng cứ gì để chứng minh thửa đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng hợp pháp của mình (như quyết định giao đất của cơ quan có thẩm quyền, giấy chuyển nhượng, di chúc thừa kế, giấy tặng cho…). Từ các tài liệu chứng cứ đương sự xuất trình, kết hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập được tại các cơ quan, tổ chức khác và kết quả xác minh tại cơ quan có thẩm quyền, sẽ tiến hành đánh giá chứng cứ một cách toàn diện, thống nhất để xác định chứng cứ nào hợp pháp, chứng cứ nào còn mâu thuẫn với các chứng cứ, lời khai khác, từ đó, có hướng xử lý phù hợp.
Đối với những thửa đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Kiểm sát viên cũng tuyệt đối không xem giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chứng cứ duy nhất để xác định người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chủ sử dụng đất hợp pháp, mà cần xem xét kỹ nguồn gốc đất, quy trình, thủ tục, chủ thể được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có đúng quy định pháp luật không. Thực tế, đã có nhiều vụ án mặc dù đương sự đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng không phải là chủ sử dụng đất hợp pháp, nhất là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp theo Nghị định số 64-CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ về việc ban hành bản quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp thì quy trình, thủ tục còn lỏng lẻo dẫn đến cấp sai chủ thể.
Kiểm sát viên cần đặc biệt lưu ý đến những tài liệu, chứng cứ do cơ quan quản lý nhà nước về đất đai cung cấp, nhất là những chứng cứ có giá trị xác định nguồn gốc đất, xác định chủ sử dụng đất qua từng thời kỳ, các cạnh tiếp giáp, hình thể, mốc giới giữa các thửa đất và xem đây là những chứng cứ quan trọng để giải quyết tranh chấp. Bên cạnh đó, cần tham khảo thêm lời khai của đương sự, người làm chứng, cán bộ quản lý qua các thời kỳ để có cơ sở đề xuất đường lối giải quyết vụ án.
Quá trình nghiên cứu hồ sơ cần phân định rõ loại nào là tài liệu, loại nào là chứng cứ. Để xác định tài liệu nào có giá trị chứng cứ cần nắm vững quy định của BLTTDS năm 2015 về chứng cứ, những loại không thỏa mãn tiêu chí về chứng cứ theo quy định của BLTTDS năm 2015 thì được xem là tài liệu. Nhưng điều này không có nghĩa là chỉ chú trọng chứng cứ mà bỏ qua tài liệu, mặt khác cũng không được xem tài liệu và chứng cứ đều có giá trị ngang nhau, đối với chứng cứ thì có thể trích dẫn làm cơ sở giải quyết vụ án, đối với tài liệu (đặc biệt là những văn bản như giấy chuyển nhượng đất, giấy giao nhận tiền, văn bản thỏa thuận, cam kết… là bản photo không có công chứng chứng thực, đương sự không xuất trình được bản gốc để đối chiếu) thì không được làm căn cứ duy nhất để giải quyết vụ án và không trích dẫn nhưng trong từng vụ án cụ thể có thể tham khảo, vận dụng và đề ra yêu cầu Tòa án xác minh bổ sung thêm.
Quá trình nghiên cứu hồ sơ tranh chấp đất đai, cần chú trọng đến các văn bản xác minh tại cơ quan quản lý nhà nước các cấp. Cùng với các chứng cứ khác, văn bản xác minh có giá trị nhất định trong việc chứng minh về nguồn gốc đất tranh chấp, việc quy đổi, chuyển đổi đất, đất cấp cho hộ gia đình hay cho cá nhân vợ, chồng, nếu cấp cho hộ gia đình thì xác định hộ gia đình gồm những ai,… Từ đó có căn cứ để xác định đầy đủ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan của vụ án.
Nghiên cứu kỹ các biên bản thẩm định, sơ đồ đo đạc, trích lục thửa đất để có cơ sở xác định hình thể thửa đất được thể hiện trong các bản đồ địa chính và hình thể thửa đất hiện tại có khác nhau không; diện tích có biến động so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bản đồ địa chính hay không, nếu biến động thì theo hướng tăng hay giảm, nguyên nhân; mốc giới, các cạnh tiếp giáp của thửa đất có thay đổi gì so với trước đây không. Tất cả những nội dung trên cần được xác minh và có văn bản trả lời cụ thể từ cơ quan quản lý nhà nước về đất đai, tuyệt đối không nhận định một cách chung chung, không có căn cứ.
Trên cơ sở đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung của nguyên đơn, Kiểm sát viên cần xác định chính xác đối tượng tranh chấp là thửa đất nào, một phần hay toàn bộ thửa đất, số thửa, số tờ bản đồ bao nhiêu, diện tích, địa chỉ cụ thể để đánh giá chứng cứ chính xác, tránh trường hợp nguyên đơn khởi kiện đối với thửa đất này nhưng lại giải quyết thửa đất khác, yêu cầu giải quyết một phần nhưng lại xem xét toàn bộ thửa đất.
Quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án cũng cần nghiên cứu đầy đủ lời khai của đương sự để xác định trong quá trình sử dụng đất, các bên có khai hoang thêm hay không. Thực tế đã xảy ra trường hợp quá trình sử dụng đất, người sử dụng đất có khai hoang, bồi đắp, tôn tạo thêm nên đã mở rộng diện tích thửa đất tranh chấp. Do đó, cần nghiên cứu kỹ nội dung này để tránh gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Để xác định đương sự có khai hoang, bồi đắp, tôn tạo thêm hay không, Kiểm sát viên cần nghiên cứu bản đồ địa chính và sơ đồ thẩm định, đo đạc hiện tại để so sánh hình thể thửa đất có thay đổi so với trước đây không, xác định nguyên nhân thay đổi, các văn bản xác minh về diện tích đất khai hoang tại các cơ quan có thẩm quyền để có hướng xử lý phù hợp… Ngoài ra, cần tham khảo thêm lời khai các bên đương sự về nội dung này để xác định chính xác chủ thể khai hoang, bồi đắp, tôn tạo đất.
Bên cạnh đó, quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án tranh chấp đất đai cần lưu ý đến các tài liệu, chứng cứ thể hiện thửa đất tranh chấp có nằm trong quy hoạch hay không, diện tích quy hoạch nằm trong hay nằm ngoài giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; vấn đề thu hồi đất, đền bù, bồi thường giải phóng mặt bằng của cơ quan có thẩm quyền liên quan đến thửa đất tranh chấp…
- Căn cứ vào mục đích nghiên cứu hồ sơ để xác định nội dung trọng tâm cần nghiên cứu:
Khi nghiên cứu hồ sơ giải quyết vụ, việc dân sự theo thủ tục sơ thẩm, cần chú trọng xác định phạm vi nghiên cứu trên cơ sở yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn và yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Sau khi xác định phạm vi giải quyết vụ án sẽ đối chiếu, phân tích các tài liệu, chứng cứ đã thu thập để xác định yêu cầu nào có cơ sở chấp nhận, yêu cầu nào không có cơ sở chấp nhận, những yêu cầu nào chưa có chứng cứ chứng minh để yêu cầu Tòa án yêu cầu đương sự xuất trình hoặc tiếp tục xác minh, thu thập chứng cứ. Theo quy định của BLTTDS năm 2015 thì thẩm quyền giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh là những vụ án có yếu tố nước ngoài và những tranh chấp có yêu cầu hủy quyết định cá biệt của cơ quan quản lý cấp huyện, cấp tỉnh. Do đó, bên cạnh việc nghiên cứu những tài liệu, chứng cứ khác, cần tập trung nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ chứng minh vụ án có yếu tố nước ngoài (xác nhận của cơ quan xuất nhập cảnh, hợp đồng lao động với tổ chức nước ngoài...), quy trình, thủ tục ban hành quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cơ quan có thẩm quyền có rõ ràng, trái pháp luật hay không để có cơ sở xác định thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo đúng quy định của pháp luật.
Đối với những vụ án tranh chấp đất đai giải quyết theo thủ tục phúc thẩm, xuất phát từ phạm vi xét xử phúc thẩm là chỉ xem xét kháng cáo của đương sự và kháng nghị của Viện kiểm sát nên việc nghiên cứu hồ sơ vụ án phục vụ công tác xét xử phúc thẩm không phải tập trung vào toàn bộ yêu cầu của đương sự mà cần tập trung vào kháng cáo của đương sự và kháng nghị của Viện kiểm sát. Trong đó, cần tập trung nghiên cứu những tài liệu, chứng cứ chứng minh cho kháng cáo, kháng nghị có cơ sở hay không có cơ sở chấp nhận, cần nghiên cứu kỹ biên bản phiên tòa và bản án sơ thẩm để xác định đương sự giữ nguyên, thay đổi hay rút yêu cầu khởi kiện, phân tích, nhận định, quyết định của bản án sơ thẩm. Việc phân tích, đánh giá chứng cứ nêu trên nhằm xác định Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm về thủ tục tố tụng và đường lối giải quyết vụ án không, mức độ vi phạm, từ đó có cơ sở đề xuất đường lối giải quyết. Bên cạnh đó, cũng cần tập trung nghiên cứu những tình tiết khác của vụ án, vì thực tế cũng có những nội dung đương sự không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị nhưng Tòa án cấp sơ thẩm vẫn có vi phạm. Thông qua việc nghiên cứu, nếu phát hiện vi phạm không nghiêm trọng sẽ đề nghị rút kinh nghiệm chung hoặc tổng hợp kiến nghị. Nếu phát hiện vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng, vi phạm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc vi phạm gây khó khăn cho công tác thi hành án nhưng không có kháng cáo, kháng nghị thì sẽ đề xuất lãnh đạo báo cáo kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
Nguyễn Thị Tuyết Loan - Phạm Thị Bằng Giang
Về định hướng nhân đạo hóa chính sách pháp luật hình sự về các tội phạm tham nhũng
Quy định về xử lý tài sản bảo đảm là bất động sản hình thành trong tương lai của một số nước và kinh nghiệm cho Việt Nam
-
1VKSND huyện Kim Thành: Thăm hỏi, tặng quà các đồng chí hưu trí nhân dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ năm 2025
-
2Xây dựng trường Đại học Kiểm sát Hà Nội trở thành cơ sở đào tạo, bồi dưỡng có chất lượng, uy tín cao trong lĩnh vực pháp luật
-
3VKSND tỉnh Phú Yên thăm, tặng quà Tết cho bà con, gia đình chính sách có hoàn cảnh khó khăn
-
4VKSND tỉnh Quảng Nam thăm và tặng quà cho nhân dân nhân dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ năm 2025
-
5Chào Xuân Ất Tỵ
-
6Kinh nghiệm nghiên cứu hồ sơ trong kiểm sát việc giải quyết các vụ án tranh chấp đất đai
Bài viết chưa có bình luận nào.