Hoàn thiện cơ chế hợp tác quốc tế về thu thập dữ liệu điện tử

25/04/2025 10:32

(kiemsat.vn)
Bài viết khái quát về thu thập dữ liệu điện tử, hợp tác quốc tế về thu thập dữ liệu điện tử; nghiên cứu, đánh giá thực trạng hợp tác quốc tế trong đào tạo, bồi dưỡng, chuyển giao phương tiện, thiết bị, công nghệ; xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tương trợ tư pháp liên quan đến thu thập dữ liệu điện tử. Từ đó, đề xuất một số giải pháp tăng cường hợp tác quốc tế, góp phần nâng cao hiệu quả thu thập dữ liệu điện tử thời gian tới.

1. Về thu thập dữ liệu điện tử và hợp tác quốc tế về thu thập dữ liệu điện tử

- Thu thập dữ liệu điện tử:

Thu thập dữ liệu điện tử (DLĐT) là tổng thể các hoạt động phát hiện, ghi nhận, thu giữ, tạm giữ, bảo quản tại chỗ đối với DLĐT của cơ quan có thẩm quyền theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định. Khái niệm này đã thể hiện một số vấn đề về các hoạt động thu thập DLĐT, chủ thể tiến hành, cụ thể:

Về các hoạt động thu thập DLĐT gồm: (1) Phát hiện DLĐT là khâu đầu tiên, hết sức quan trọng của việc thu thập DLĐT, bởi lẽ cơ quan có thẩm quyền chỉ có thể thu thập DLĐT khi phát hiện ra nó; (2) Thu giữ, tạm giữ, bảo quản DLĐT được tiến hành sau khi đã áp dụng các biện pháp phát hiện, mỗi loại DLĐT có thể thu giữ, tạm giữ, bảo quản bằng nhiều cách khác nhau như thu giữ, tạm giữ phương tiện điện tử, chặn thu trên đường truyền, sao lưu DLĐT sang thiết bị lưu trữ chuyên dụng, bảo quản, niêm phong, mở niêm phong như đối với vật chứng. Để phát hiện, thu giữ, tạm giữ, bảo quản DLĐT có thể sử dụng nhiều biện pháp khác nhau, nhưng để đảm bảo giá trị pháp lý của DLĐT phải sử dụng các biện pháp thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) như khám xét, khám nghiệm hiện trường, yêu cầu cung cấp DLĐT…

Về chủ thể tiến hành thu thập dữ liệu điện tử: Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2021 (BLTTHS năm 2015) không quy định rõ ai là người có thẩm quyền thu thập DLĐT, tuy nhiên, việc thu thập DLĐT phải đảm bảo các quy định về thu thập chứng cứ, do đó có thể hiểu chủ thể có thẩm quyền thu thập chứng cứ cũng là chủ thể có thẩm quyền thu thập DLĐT, đó là cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và người bào chữa. Ngoài ra, theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì một số cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu như: Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Kiểm ngư, Cảnh sát biển và các cơ quan khác trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cũng có thẩm quyền thu thập DLĐT.

Hợp tác quốc tế trong thu thập DLĐT: Hợp tác quốc tế về thu thập DLĐT là một nội dung của hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự. Theo đó, hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự là việc các cơ quan có thẩm quyền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài phối hợp, hỗ trợ nhau để thực hiện hoạt động phục vụ yêu cầu điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự; hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự gồm tương trợ tư pháp (TTTP) về hình sự, dẫn độ, tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù và các hoạt động hợp tác quốc tế khác được quy định trong Bộ luật Hình sự, pháp luật về TTTP và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Với quy định này thì hợp tác quốc tế về thu thập DLĐT trong điều tra vụ án hình sự là một nội dung của hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự, nằm trong TTTP về hình sự. Tuy nhiên, trong bài viết, tác giả mở rộng phạm vi hợp tác quốc tế về thu thập DLĐT, theo đó bao gồm các hoạt động hợp tác quốc tế trong đào tạo, bồi dưỡng, chuyển giao phương tiện, thiết bị, công nghệ; xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến thu thập DLĐT.

2. Thực trạng hợp tác quốc tế về thu thập dữ liệu điện tử

Thứ nhất, hợp tác quốc tế trong đào tạo, bồi dưỡng, chuyển giao phương tiện thiết bị, công nghệ:

Nguyên tắc chung liên quan đến hợp tác quốc tế về thu thập DLĐT yêu cầu các quốc gia phải hợp tác với nhau, phù hợp với các quy định và thông qua việc áp dụng các văn bản quốc tế về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hình sự, các thỏa thuận hợp tác trên cơ sở luật hợp nhất hoặc “có đi có lại” và luật của mỗi quốc gia thành viên, với phạm vi rộng nhất có thể để phục vụ việc điều tra, tố tụng liên quan đến các tội phạm hình sự có liên quan đến hệ thống máy tính và dữ liệu máy tính hoặc để thu thập chứng cứ dưới hình thức điện tử.

Như vậy, để hoạt động thu thập DLĐT đối với các vụ án có yếu tố nước ngoài liên quan đến thu thập dữ liệu điện tử yêu cầu năng lực, trình độ của cán bộ làm công tác, cùng với phương tiện, công nghệ phù hợp hiện đại là yếu tố tiền đề quyết định để hiểu các quy định về luật quốc tế và pháp luật một số quốc gia liên quan đến thu thập DLĐT được hiệu quả. Tuy nhiên, trình độ khoa học công nghệ Việt Nam hiện nay vẫn chưa theo kịp sự phát triển của thế giới nhất là các nước phát triển hàng đầu như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Đức, Trung Quốc… Do vậy, thời gian qua Việt Nam đã chủ động, tích cực hợp tác với các nước phát triển tổ chức các buổi tập huấn, hội thảo liên quan đến thu thập DLĐT. Qua đó, giúp nâng cao trình độ, kỹ năng về thu thập DLĐT cho cán bộ chuyên trách của Việt Nam, mặt khác tạo điều kiện trao đổi, chuyển giao phương tiện, thiết bị, công nghệ liên quan đến thu thập DLĐT, hỗ trợ tích cực quá trình điều tra, làm rõ các tình tiết của vụ án.

Tuy nhiên, cùng với những mặt tích cực đạt được, thực tiễn còn một số vấn đề như: Số lượng các lớp tập huấn, bồi dưỡng còn ít, phần lớn cán bộ trực tiếp làm công tác chưa có điều kiện tham gia; một số nội dung tập huấn còn mới, không chuyển giao tài liệu, chưa phân tầng lớp học theo cấp độ, chuyên môn, lĩnh vực công tác. Bên cạnh đó, khả năng ngoại ngữ của các học viên cũng hạn chế nên chưa phát huy tối đa hiệu quả khi được tham gia tập huấn, sau khi kết thúc khóa học, học viên thường khó có thể trực tiếp liên hệ với chuyên gia để tìm hiểu, trao đổi thêm về những vấn đề chưa rõ hoặc vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn. Hầu hết các buổi tập huấn học viên đều được trực tiếp thao tác trên các phương tiện, phần mềm hiện đại do chuyên gia nước ngoài cung cấp, nhưng phương tiện này hầu hết là mới lạ, chưa được trang cấp tại Việt Nam và đa số không được chuyển giao sau khi kết thúc tập huấn…

Thứ hai, hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến thu thập DLĐT:

Thời gian qua, Việt Nam vẫn thường xuyên phối hợp, trao đổi với các nước có kinh nghiệm trong xây dựng văn bản pháp luật nói chung, văn bản pháp luật liên quan đến DLĐT nói riêng. Quá trình trao đổi được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như thông qua hội thảo, tọa đàm, tổng kết nghiên cứu khoa học… Nội dung tập trung vào vấn đề áp dụng pháp luật tố tụng hình sự trong thu thập chứng cứ từ nguồn DLĐT; làm rõ những bất cập trong các quy định của pháp luật có liên quan. Bên cạnh kết quả đạt được, quá trình hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, xây dựng các quy định của pháp luật liên quan đến thu thập DLĐT vẫn chưa thật sự hiệu quả, hệ thống các văn bản pháp luật Việt Nam liên quan đến DLĐT, thu thập DLĐT chưa thật sự hoàn thiện, chưa theo kịp những vấn đề mới, phát sinh trong thực tiễn hiện nay, chẳng hạn:

Khoản 1 Điều 107 BLTTHS năm 2015 quy định trường hợp không thể thu giữ phương tiện lưu trữ DLĐT thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng sao lưu DLĐT đó vào phương tiện điện tử và bảo quản như đối với vật chứng, đồng thời yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan lưu trữ, bảo toàn nguyên vẹn DLĐT mà cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã sao lưu và cơ quan, tổ chức, cá nhân này phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Tuy nhiên, thời gian lưu trữ dữ liệu này là bao lâu để có thể bảo đảm tính nguyên vẹn của DLĐT thì vẫn chưa được quy định cụ thể. Theo chúng tôi, vấn đề này Việt Nam có thể tham khảo quy định của một số nước như Liên minh Châu Âu quy định thời hạn lưu trữ dữ liệu máy tính thuộc sự chiếm hữu, quản lý của một cá nhân đòi hỏi cá nhân đó có nghĩa vụ giữ gìn và duy trì toàn vẹn dữ liệu của máy tính đó trong một thời gian cần thiết (không quá 90 ngày) hay đối với Luật tố tụng hình sự Nhật Bản quy định cơ quan chức năng có quyền yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ lưu trữ dữ liệu máy tính lên đến 60 ngày khi có yêu cầu.

Khoản 2 Điều 99 BLTTHS năm 2015 quy định DLĐT được thu thập từ phương tiện điện tử, mạng máy tính, mạng viễn thông, trên đường truyền và các nguồn điện tử khác. Trong khi, Điều 107 BLTTHS năm 2015 quy định “khi thu thập, chặn thu, sao lưu DLĐT từ phương tiện điện tử, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc trên đường truyền…” như vậy cho thấy hoạt động thu thập DLĐT chỉ gắn với thu thập từ phương tiện điện tử mà vẫn chưa thể hiện việc thu thập DLĐT từ mạng internet và các dịch vụ gia tăng khác. Với nội dung này, chúng tôi nhận thấy pháp luật Việt Nam có thể tham khảo quy định Công ước của Hội đồng Châu Âu về tội phạm mạng để yêu cầu nhà mạng đang cung cấp dịch vụ trong lãnh thổ quốc gia xuất trình thông tin về người đăng ký dịch vụ có liên quan đến dịch vụ đó đang thuộc sự chiếm hữu, quản lý của nhà cung cấp dịch vụ, bên cạnh đó, quy định yêu cầu  cá nhân có nghĩa vụ giữ gìn và duy trì sự toàn vẹn của dữ liệu máy tính trong một thời gian cần thiết. Cụ thể, Điều 16 Công ước của Hội đồng Châu Âu về tội phạm mạng quy định việc bảo quản khẩn cấp các dữ liệu máy tính đã được lưu trữ: “… Các cơ quan chức năng ra lệnh hoặc thực hiện các biện pháp tương tự để  bảo quản khẩn cấp các dữ liệu máy tính nhất định, bao gồm cả dữ liệu lưu thông, đã được lưu trữ bởi hệ thống máy tính, nhất là khi có căn cứ để cho rằng dữ liệu máy tính này đặc biệt dễ bị mất hoặc thay đổi; trường hợp quốc gia thành viên công ước đảm bảo hiệu lực của khoản 1 Điều 16 bằng quy định ra lệnh cho một người phải giữ gìn dữ liệu máy tính đã được lưu trữ thuộc sự chiếm hữu, quản lý của người đó, quốc gia thành viên Công ước phải ban hành luật và các biện pháp cần thiết khác để quy định người này có nghĩa vụ giữ gìn và duy trì sự toàn vẹn của dữ liệu máy tính đó trong một thời gian cần thiết, không quá 90 ngày, để tạo khả năng cho các cơ quan chức năng có được các thông tin từ dữ liệu. Quốc gia thành viên có thể quy định việc gia hạn lệnh kể trên, buộc người giữ gìn dữ liệu máy tính đảm bảo sự bí mật về hành vi tố tụng đó trong một thời hạn được luật của quốc gia mình quy định”.

Ngoài ra, hệ thống pháp luật về đảm bảo an ninh mạng của Việt Nam cũng chưa hoàn thiện, nhiều lĩnh vực, dịch vụ mới hình thành chưa có quy định, cơ chế quản lý: Hiện nay chưa có quy định cụ thể trong quản lý, sử dụng các loại tiền điện tử, hoạt động của các sàn giao dịch ngoại hối qua mạng; bên cạnh đó, sự bất cập về quy định trì hoãn giao dịch, phong tỏa tài khoản ngân hàng, dẫn đến việc khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm nhưng không ngăn chặn hậu quả kịp thời, thiệt hại tài sản cho bị hại…

Thứ ba, thu thập DLĐT thông qua tương trợ tư pháp về hình sự:

Tương trợ tư pháp về hình sự là kênh hợp tác chính thức, là cánh tay nối dài của hoạt động tư pháp hình sự ra bên ngoài phạm vi lãnh thổ quốc gia, các cơ quan tiến hành tố tụng các nước hỗ trợ lẫn nhau trên cơ sở điều ước quốc tế hoặc theo pháp luật và thực tiễn tư pháp quốc tế để tiến hành các hoạt động cần thiết nhằm giải quyết vụ án hình sự, trong đó có hoạt động thu thập chứng cứ là DLĐT. Tuy nhiên, thực trạng ký kết, tham gia các điều ước quốc tế đa phương và các điều ước quốc tế song phương về tương trợ tư pháp hình sự giữa Việt Nam với các quốc gia còn rất hạn chế. Do vậy, bên cạnh việc ký kết các điều ước quốc tế, các hiệp định tương trợ tư pháp, đặc biệt là hiệp định song phương giữa các nước, thì việc tăng cường tương trợ tư pháp còn có thể được thực hiện thông qua con đường ngoại giao giữa các quốc gia, hoặc theo nguyên tắc “có đi có lại” khi có nhu cầu.

Theo số liệu thống kê của Vụ hợp tác quốc tế và tương trợ tư pháp về hình sự (Vụ 13) Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao, các yêu cầu TTTP đi và đến của các cơ quan tiến hành tố tụng Việt Nam đề nghị phía nước ngoài hỗ trợ điều tra, thu thập DLĐT chiếm tỉ lệ không nhiều so với tổng số yêu cầu TTTP hàng năm mà VKSND tối cao đề nghị phía nước ngoài thực hiện. Trong 03 năm (2020, 2021, 2022) VKSND tối cao chỉ tiếp nhận và xử lý 09 yêu cầu tương TTTP của các cơ quan tiến hành tố tụng trong nước đề nghị nước ngoài hỗ trợ thực hiện. Nội dung yêu cầu hỗ trợ chủ yếu là: Thông tin cơ bản về người dùng (BSI) gồm tên của thuê bao/ người dùng, thời gian, thuê bao đã sử dụng một dịch vụ cụ thể và địa chỉ giao thức internet (IP) của lần đăng nhập đầu tiên, siêu dữ liệu, liên quan đến cung cấp dịch vụ); dữ liệu phản ánh thông tin về các thông số truy cập (không quan tâm đến nội dung truy cập) gồm dữ liệu liên quan đến kết nối, lưu lượng truy cập hoặc vị trí của giao tiếp (cung cấp địa chỉ IP hoặc MAC), nhật ký truy cập, ghi lại thời gian cụ thể mà cá nhân nào đó đã truy cập dịch vụ và địa chỉ IP mà dịch vụ được truy cập từ đó, nhật ký giao dịch, xác định các sản phẩm dịch vụ mà một cá nhân đã nhận được từ bên thứ ba; dữ liệu phản ánh nội dung truy cập (như văn bản của email, tin nhắn, bài đăng, video, hình ảnh, âm thanh) được lưu trữ ở định dạng kỹ thuật số hoặc thông tin địa lý. Các dữ liệu này ở trạng thái đã được lưu trữ hoặc thu thập theo thời gian thực. Những DLĐT được cơ quan có thẩm quyền nước ngoài cung cấp có ý nghĩa quan trọng và là nguồn chứng cứ giúp làm sáng tỏ bản chất của vụ án… Tuy nhiên, hoạt động TTTP về thu thập DLĐT vẫn còn nhiều khó khăn, chủ yếu xuất phát từ nguyên nhân khách quan là rào cản pháp lý. Ví dụ, quy định pháp luật của Hoa Kỳ, Canada, Australia quy định việc thực hiện các hoạt động điều tra nhằm thu thập thông tin, tài liệu làm chứng cứ trong vụ án hình sự phải có lệnh khám xét, thu giữ của Tòa án có thẩm quyền. Do vậy, khi nhận được văn bản yêu cầu TTTP của nước ngoài gửi đến, cơ quan trung ương của các nước này phải xây dựng hồ sơ trình lên Tòa án có thẩm quyền để xin ban hành lệnh khám xét, chỉ khi có lệnh của Tòa án có thẩm quyền thì người quản trị của máy chủ mới hợp tác cung cấp thông tin. Toàn bộ quy trình này mất rất nhiều thời gian, nhất là những trường hợp phía nước ngoài yêu cầu bổ sung thông tin, tài liệu để làm căn cứ. Điều này dẫn đến khó khăn trong đảm bảo thời hạn giải quyết tố giác tin báo về tội phạm, điều tra, truy tố, xử xử vụ án hình sự theo quy định của BLTTHS Việt Nam. Đồng thời, việc kéo dài thời gian để thu thập thông tin tài liệu có thể ảnh hưởng đến dữ liệu trên máy chủ có thể đã bị xóa tự động theo định kỳ hoặc đối tượng phạm tội cố ý xóa để tránh bị phát hiện. Ngoài ra, các yêu cầu thu thập DLĐT là tài liệu của ngân hàng, tổ chức tín dụng về thông tin và giao dịch của tài khoản ngân hàng thường gặp khó khăn do chính sách bảo vệ thông tin cá nhân của khách hàng hoặc thuộc diện tài liệu mật không được công khai sử dụng…

Thứ tư, thu thập DLĐT thông qua hợp tác quốc tế không chính thức:

Bên cạnh việc hợp tác chính thức thông qua các hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự, để có thể đấu tranh có hiệu quả đối với tội phạm mạng, trong quá trình tiến hành tố tụng các cơ quan thực thi pháp luật của các quốc gia thường áp dụng cơ chế hợp tác không chính thức để hỗ trợ, chia sẻ thông tin trong quá trình giải quyết vụ án. Thông qua kênh hợp tác không chính thức (có thể giữa cảnh sát các nước với nhau), yêu cầu trợ giúp có thể được tiếp nhận và xử lý một cách nhanh chóng bởi việc liên lạc trực tiếp giữa các cơ quan thực thi pháp luật không quá phức tạp về trình tự, thủ tục như đối với kênh hợp tác chính thức.

Tuy nhiên, thông qua kênh không chính thức, việc hỗ trợ và giúp đỡ nhau bị hạn chế nhiều bởi hầu hết các quốc gia chủ yếu chỉ cho phép việc tư vấn và hỗ trợ pháp lý, kỹ thuật đối với các vụ án liên quan đến tội phạm mạng. Do vậy, rất khó khăn trong việc sử dụng cơ chế này để thu thập chứng cứ DLĐT khi các nước chỉ đồng ý hỗ trợ dưới hình thức hợp tác chính thức. Mặc dù vậy, hiện nay có rất nhiều tổ chức quốc tế và khu vực được thành lập, hỗ trợ cho hoạt động hợp tác không chính thức được thực hiện có hiệu quả hơn như: INTERPOL, SEAJust…

3. Một số kiến nghị, đề xuất nhằm góp phần nâng cao hiệu quả thu thập dữ liệu điện tử trong hoạt động hợp tác quốc tế thời gian tới

Một là, tăng cường hợp tác quốc tế trong đào tạo, bồi dưỡng, chuyển giao phương tiện, thiết bị, công nghệ liên quan đến thu thập DLĐT.

Trải qua thực tiễn công tác và dựa trên sự tiến bộ vượt bậc về trình độ khoa học kỹ thuật, các chuyên gia thuộc cơ quan thực thi pháp luật của nước đối tác đã tích lũy nhiều kinh nghiệm về thu thập DLĐT. Vì vậy, việc tăng cường các lớp đào tạo, bồi dưỡng đồng nghĩa với tạo điều kiện cho nhiều cán bộ làm công tác liên quan đến thu thập DLĐT của Việt Nam (cán bộ làm công tác điều tra, cán bộ chuyên môn, giảng viên giảng dạy chuyên đề liên quan đến thu thập DLĐT) được gặp gỡ, tiếp xúc trao đổi với chuyên gia nước ngoài, tiếp cận với các nền khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới, giúp nâng cao trình độ, năng lực và kinh nghiệm công tác. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đề ra, đòi hỏi cơ quan chức năng Việt Nam phải chủ động phối hợp với đối tác nước ngoài thống nhất chương trình, kế hoạch, đề xuất các vấn đề cần thiết như chuyển giao tài liệu nghiên cứu trước đợt tập huấn; phân chia lớp học theo đúng cấp độ, chuyên đề, lĩnh vực công tác, khả năng ngôn ngữ; tham mưu, đề xuất cấp có thẩm quyền cho phép thiết lập kênh liên lạc giữa học viên với chuyên gia tập huấn trong phạm vi nhất định và có sự giám sát cơ quan chức năng…

Bên cạnh hợp tác quốc tế trong nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm công tác thu thập DLĐT thì chuyển giao phương tiện, thiết bị, công nghệ phù hợp, hiện đại cũng là một vấn đề cần quan tâm, đòi hỏi các cơ quan chức năng Việt Nam khi hợp tác với đối tác nước ngoài trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cần đặt vấn đề về hỗ trợ, chuyển giao phương tiện, thiết bị, công nghệ phục vụ công tác; định hướng những phương tiện, công nghệ phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam để mua sắm. Cụ thể trước khi trang cấp cần phải tính toán lựa chọn phương tiện, thiết bị, công nghệ thật sự cần thiết, cơ sở đảm bảo sử dụng tối ưu, lộ trình trang cấp… tránh tình trạng lãng phí hoặc sử dụng không hiệu quả.

Hai là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến thu thập DLĐT.

Tiếp tục tăng cường tổ chức hội thảo, tọa đàm liên quan đến xây dựng pháp luật với các nước đối tác có hệ thống pháp luật phát triển vượt bậc, trong đó bám sát với từng chuyên đề, tăng cường hình thức hội thảo trực tuyến để mở rộng diện đối tượng tham gia, nhất là các nhà nghiên cứu, cán bộ thực tiễn làm công tác liên quan đến thu thập DLĐT.

Trước khi hợp tác tổ chức tọa đàm, hội thảo cần tìm hiểu, nghiên cứu hệ thống pháp luật của nước đối tác, đặc biệt là văn bản liên quan trực tiếp đến thu thập DLĐT, xem xét những điểm vượt trội, phù hợp trong giải quyết những vấn đề đang còn bỏ ngỏ trong hệ thống pháp luật Việt Nam và cả của nước đối tác, vừa giúp hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến thu thập DLĐT của Việt Nam bằng các hình thức khác nhau như tham gia nhiều hơn các điều ước quốc tế đa phương, đặc biệt là điều ước quốc tế song phương về hình sự làm cơ sở pháp lý để các quốc gia hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình thu thập DLĐT, phục vụ cho hoạt động điều tra, truy tố và xét xử tội phạm.

Ba là, nâng cao khả năng thu thập DLĐT thông qua kênh tương trợ tư pháp về hình sự giữa Việt Nam và nước ngoài:

Việc tương trợ tư pháp nhằm thu thập DLĐT yêu cầu các quốc gia thành viên công ước phải đảm bảo cung cấp sự tương trợ tư pháp rộng lớn nhất có thể để phục vụ hoạt động điều tra hoặc tố tụng liên quan đến các tội phạm về hệ thống máy tính hoặc dữ liệu máy tính hoặc việc thu thập các chứng cứ dưới hình thức điện tử về các tội phạm.

Thời gian tới để tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan có thẩm quyền nước ngoài thực hiện việc thu thập DLĐT theo yêu cầu của phía Việt Nam, cơ quan tiến hành tố tụng trong nước cần lưu ý một số vấn đề như:

- Khi lập ủy thác cần mô tả cụ thể, chi tiết nội dung vụ án, đặc biệt là quá trình thực hiện hành vi phạm tội của đối tượng và các đối tượng có liên quan, cung cấp đầy đủ thông tin về địa điểm hoặc phương thức có thể thu thập được dữ liệu, tài liệu mà phía Việt Nam đang cần thu thập. Như trong yêu cầu TTTP cần yêu cầu nhà cung cấp dịch vụ cung cấp dữ liệu nội dung được mã hóa từ bản sao lưu đám mây. Ví dụ: Một số thiết bị tự động sao lưu các tin nhắn được mã hóa và lưu trữ trên đám mây. Trong những trường hợp này, một yêu cầu tương trợ tư pháp phải được gửi tới nhà cung cấp dịch vụ, người có quyền giám sát và kiểm soát bản sao lưu đám mây, mặc dù bản sao lưu đám mây cũng có thể được người dùng mã hóa và sẽ phải được giải mã bằng các phương tiện khác. Đồng thời, có thể phân tích dữ liệu nội dung có thể truy cập của các thiết bị trong mạng để xác nhận xem có nội dung nào có chứa mật khẩu hoặc mã để cho phép truy cập vào dữ liệu nội dung được mã hóa hay không. Thông qua kênh cảnh sát, các cơ quan thực thi pháp luật có thể chia sẻ khóa mã hóa hoặc công nghệ để giải mã, nếu có.

- Truy cập các máy chủ lưu trữ các khóa mã hóa:

Yêu cầu thu thập dữ liệu lưu lượng truy cập theo thời gian thực. Thường các quốc gia khi tham gia điều ước quốc tế, đặc biệt là các hiệp định tương trợ tư pháp có liên quan đến thu thập dữ liệu điện tử, họ phải thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết và giúp đỡ nhau trong việc thu thập  dữ liệu lưu thông trong thời gian thực có liên quan với liên lạc được điều tra trong lãnh thổ của mình được truyền tải qua hệ thống máy tính, và các quốc gia thành viên phải cung cấp sự tương trợ tối thiểu là với các tội phạm  mà việc thu thập dữ liệu là sẵn có trong hồ sơ vụ việc tương tự quốc gia mình đang tiến hành. Ví dụ từ việc thu thập dữ liệu lưu lượng thời gian thực có thể biết vị trí của nghi phạm, dẫn đến việc bắt giữ và khôi phục thiết bị cho phép truy cập dữ liệu nội dung được mã hóa.

Cần trình bày được mối liên hệ giữa dữ liệu, tài liệu mà phía Việt Nam đang cần thu thập với tổ chức, cá nhân đang nắm giữ những dữ liệu, tài liệu đó tại nước được yêu cầu…

Để giải quyết vụ án một cách khách quan, đúng quy định và bảo đảm thời hạn tố tụng, các cơ quan chức năng Việt Nam cần chủ động phối hợp kịp thời, nhanh chóng với cơ quan chức năng, cơ quan chuyên môn thực hiện các biện pháp nghiệp vụ để chặn thu dữ liệu, đồng thời cơ quan chức năng tranh thủ các kênh thông tin từ đối tác nước ngoài gồm kênh chính thức và không chính thức để tiến hành thu thập DLĐT.

Ban hành quyết định tố tụng nhằm xác định đối tượng phạm tội đang có mặt tại một địa điểm có liên quan vào thời điểm nhất định nhằm thu thập chứng cứ quan trọng để hỗ trợ điều tra hoặc truy tố. Trường hợp các tài liệu, chứng cứ khác đã đủ để chứng minh hành vi phạm tội thì cũng không nhất thiết phải đề nghị phía nước ngoài hỗ trợ thu thập DLĐT. Trường hợp DLĐT mà Việt Nam thu thập được bằng các kênh không chính thức sẽ được sử dụng để cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền nước ngoài tiến hành theo thủ tục.

Hoàng Thị Hoa - Nguyễn Thị Hiền

Bàn về nghĩa vụ chịu án phí dân sự trong trường hợp các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án trước khi mở phiên tòa

(Kiemsat.vn) - Án phí dân sự là một yếu tố quan trọng trong quá trình tố tụng dân sự, hiện diện trong hầu hết các bản án, quyết định dân sự, là khoản chi phí mà đương sự phải nộp trong mỗi vụ án do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang