Bị cáo A không tái phạm nguy hiểm
(kiemsat.vn) Tác giả cho rằng muốn xác định bị cáo A có phạm tội mua bán người với tình tiết định khung “tái phạm nguy hiểm” theo điểm e khoản 3 Điều 150 BLHS hay không phải căn cứ vào các bản án trước đó của bị cáo để xác định.
Bất cập về miễn hình phạt trong BLHS năm 2015
Nâng cao vai trò của VKS trong hoạt động phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương qua công tác kiến nghị
Tái phạm hay tái phạm nguy hiểm?
Sau khi nghiên cứu nội dung bài viết: "Tái phạm hay tái phạm nguy hiểm?" , của tác giả Nguyễn Hữu Cảnh đăng trên Kiemsat.vn ngày 12/11/2018, tôi có ý kiến trao đổi như sau:
A chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội mua bán người theo khoản 1 Điều 150 BLHS năm 2015 (BLHS) có mức hình phạt tù từ 05 năm đến 10 năm và áp dụng tình tiết tăng nặng là “tái phạm”. Vì bản án năm 2014 không xác định A “tái phạm” nên lần phạm tội ngày 15/5/2018, A không bị áp dụng tình tiết “tái phạm nguy hiểm”
Theo Điều 53 BLHS quy định: “Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý”.
Ảnh minh hoạ |
Theo đó, căn cứ để xác định tái phạm là “đã bị kết án”, có nghĩa là người phạm tội phải bị Tòa án xét xử bằng một bản án có hiệu lực pháp luật. Nhưng bản án được quy định tại Điều 260 BLTTHS năm 2015 bắt buộc phải ghi đầy đủ các nội dung sau:
- Đối với bản án sơ thẩm phải ghi rõ: Tên Tòa án xét xử sơ thẩm; số và ngày thụ lý vụ án; số của bản án và ngày tuyên án; họ tên của các thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, nơi cư trú, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, dân tộc, tiền án, tiền sự của bị cáo; ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam; họ tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi sinh, nơi cư trú của người đại diện của bị cáo; họ tên của người bào chữa, người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật và những người khác được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa; họ tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi cư trú của bị hại, đương sự, người đại diện của họ; số, ngày, tháng, năm của quyết định đưa vụ án ra xét xử; xét xử công khai hoặc xét xử kín; thời gian và địa điểm xét xử;
….
- Đối với bản án phúc thẩm phải ghi rõ: Tên Tòa án xét xử phúc thẩm; số và ngày thụ lý vụ án; số của bản án và ngày tuyên án; họ tên của các thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, nơi cư trú, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, dân tộc, tiền án, tiền sự của bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo, bị kháng nghị và những bị cáo không kháng cáo, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị nhưng Tòa án cấp phúc thẩm có xem xét; ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam; họ tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi sinh, nơi cư trú của người đại diện của bị cáo; họ tên của người bào chữa, người giám định, người phiên dịch và những người khác được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa; họ tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi cư trú, địa chỉ của bị hại, đương sự, người đại diện của họ; tên của Viện kiểm sát có kháng nghị; xét xử công khai hoặc xét xử kín; thời gian và địa điểm xét xử;
…….
Qua đó cho thấy, kể cả bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm, BLTTHS đều quy định bắt buộc phải ghi “tiền án, tiền sự” của bị cáo. Nếu A phạm tội ngày 10/2/2014 nhưng Tòa án không ghi tiền án trong bản án để xác định bị cáo A “tái phạm” là bản án vi phạm Điều 260 BLTTHS. Hơn nữa, nếu không ghi tiền án (các tiền án) của bị cáo vào các bản án trước sẽ không có căn cứ để HĐXX quyết định hình phạt đúng đắn của bản án lần sau và cũng không có căn cứ để xác định “tái phạm nguy hiểm” đối với bị cáo A.
Mặt khác, tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm theo quy định tại Điều 243 và Điều 321 BLTTHS thì cáo trạng và luận tội, BLTTHS đã quy định bắt buộc phải nêu rõ tình tiết tăng nặng (tiền án, tiền sự) và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo, nên HĐXX không thể không ghi tình tiết “tái phạm” của bị cáo A trong bản án phạm tội ngày 10/2/2014.
Do đó, muốn xác định bị cáo A có phạm tội mua bán người với tình tiết định khung “tái phạm nguy hiểm” theo điểm e khoản 3 Điều 150 BLHS hay không phải căn cứ vào các bản án trước đó của bị cáo để xác định. Các cơ quan tiến hành tố tụng không thể căn cứ vào quy định theo Điều 53 BLHS “đã bị kết án” để xác định bị cáo A “tái phạm nguy hiểm”.
Nếu xem xét theo hướng có lợi cho bị cáo A thì không xem xét giám đốc thẩm đối với bản án năm 2014, theo đó cũng không xem xét tình tiết “tái phạm nguy hiểm” đối với bị cáo A trong lần phạm tội ngày 15/5/2018.
-
1Một số giải pháp phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép
-
2Cần hoàn thiện quy định về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
-
3Một số vướng mắc trong giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước trong tố tụng hình sự thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân
-
4Quy định về đương nhiên xóa án tích - bất cập và kiến nghị hoàn thiện
-
5VKSND thành phố Hà Nội phối hợp tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm trực tuyến vụ án dân sự phúc thẩm “Đòi quyền sử dụng đất nhà thờ họ”
-
6VKSND huyện Phú Hòa kiến nghị khắc phục, phòng ngừa vi phạm pháp luật qua công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính
-
7Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp pháp luật trong điều tra, xử lý tội phạm tuyên truyền chống nhà nước Việt Nam
Bài viết chưa có bình luận nào.