Trao đổi: “Về kiểm sát việc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự”
(kiemsat.vn) Tác giả nêu quan điểm cá nhân đối với bài viết: "Về kiểm sát việc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự", đăng trên Kiemsat.vn ngày 25/7/2018.
Bàn về công tác thanh tra trong ngành Kiểm sát nhân dân
Cần hướng dẫn cách tính thời hạn tạm giam trong giai đoạn truy tố
Về xem xét quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực của Viện kiểm sát
Về vị trí của hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát việc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự: Tôi đồng ý với quan điểm là “quyết định khởi tố vụ án hình sự; quyết định không khởi tố vụ án hình sự và quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố chính là các kết quả của quá trình giải quyết tin báo, tố giác tội phạm. Trong đó, quyết định khởi tố vụ án hình sự có vị trí đặc biệt, được coi như “bản lề” của 2 giai đoạn tố tụng khác nhau vì nó đóng lại giai đoạn giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và mở ra quá trình điều tra. Tuy nhiên, quyết định không khởi tố vụ án hình sự lại không có tính chất như vậy, nó chỉ đơn thuần là kết quả cuối cùng, đóng lại quá trình giải quyết tin báo, tố giác tội phạm. Nên cũng cần đánh giá, về bản chất, hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát việc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự phải thuộc giai đoạn giải quyết tin báo, tố giác tội phạm. Việc quy định theo kết cấu các văn bản pháp luật đã trích dẫn như quan điểm thứ nhất là để thuận lợi cho quá trình thực hiện, thể hiện tính liên tục giữa 2 giai đoạn: Giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và điều tra mà không có ý nghĩa xác định hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát việc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự được tiến hành trong giai đoạn điều tra.”
Ảnh minh họa |
Đối với trường hợp xử lý khi quyết định không khởi tố vụ án hình sự chưa đủ căn cứ theo điểm a, khoản 1 Điều 13 Quy chế tạm thời số 03 chỉ quy định trong thời hạn 03 ngày, kể từ khi nhận được quyết định không khởi tố vụ án hình sự và các tài liệu có liên quan của Cơ quan có thẩm quyền điều tra, Kiểm sát viên phải kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định đó. Nếu thấy chưa đủ căn cứ thì báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện có văn bản yêu cầu cơ quan đã ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự bổ sung tài liệu, chứng cứ để làm rõ. Theo tôi thời hạn 3 ngày để Kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ, kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định đó và báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phương án giải quyết là: Yêu cầu cơ quan đã ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự bổ sung tài liệu, chứng cứ để làm rõ. Cơ quan đã ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự sẽ bổ sung tài liệu, chứng cứ ngoài thời hạn 3 ngày này. Thời hạn bổ sung tài liệu, chứng cứ không thể vượt quá thời hạn giải quyết tin báo, tố giác tội phạm. Nếu hết thời hạn trên, các tài liệu, chứng cứ bổ sung được không đủ để làm căn cứ khởi tố vụ án, cũng không thuộc trường hợp tạm đình chỉ thì theo nguyên tắc trách nhiệm chứng minh thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng và nguyên tắc suy đoán vô tội, cần phải giữ nguyên Quyết định không khởi tố vụ án thì sẽ hoàn toàn hợp lý theo tinh thần chung của pháp luật.
Về trình tự, thủ tục thu thập và giá trị chứng minh của những tài liệu, chứng cứ được bổ sung tác giả bài viết cho rằng “Về trường hợp tạm đình chỉ việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, Điều 148 BLTTHS 2015 cũng quy định “Trường hợp tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì việc giám định, định giá tài sản hoặc tương trợ tư pháp vẫn tiếp tục được tiến hành cho đến khi có kết quả.” Theo đó, tuy việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm đã tạm dừng nhưng một số hoạt động tố tụng vẫn được phép tiến hành (giám định, định giá tài sản hoặc tương trợ tư pháp) nên tài liệu, chứng cứ được thu thập theo trình tự này cũng hoàn toàn hợp pháp. Đối với trường hợp Quyết định không khởi tố vụ án thì lại có sự khác biệt. Về nguyên tắc, khi đã có Quyết định không khởi tố vụ án, nghĩa là đã khép lại quá trình giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, theo đó, mọi hoạt động tố tụng liên quan đến việc thu thập tài liệu, xác minh, làm rõ nguồn tin cũng phải chấm dứt. Do đó, vấn đề đặt ra là, sau khi đã ra Quyết định không khởi tố vụ án hình sự, tất cả những hoạt động thu thập tài liệu, chứng cứ sẽ tuân theo trình tự thủ tục tố tụng nào và có giá trị chứng minh hay không? Đây là “khoảng trống” chưa được quy phạm pháp luật nào điều chỉnh.”
Theo tôi, tuy việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm đã tạm dừng nhưng một số hoạt động tố tụng vẫn được phép tiến hành như giám định, định giá tài sản hoặc tương trợ tư pháp… Nên tài liệu, chứng cứ được thu thập theo trình tự này là hoàn toàn hợp pháp vì xét về bản chất, chứng cứ là những thông tin, tài liệu hay những gì có thật được cơ quan tiến hành tố tụng thu thập, kiểm tra và đánh giá theo quy định của pháp luật nhằm phục vụ cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì một thông tin, tài liệu chỉ có thể được coi là chứng cứ của vụ án khi nó có đủ ba thuộc tính sau:
- Tính khách quan: Là những gì có thật và phản ánh trung thực những tình tiết của vụ án hình sự đã xảy ra.
- Tính liên quan: Có mối quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với vụ án. Nhưng cho dù là trực tiếp hay gián tiếp thì đó cũng phải là mối quan hệ nội tại, có tính nhân quả, tức là chứng cứ phải là kết quả của một loại hành vi hoặc hành động hoặc một quan hệ nhất định, ngược lại, hành vi, hành động hoặc quan hệ đó là nguyên nhân dẫn đến việc hình thành các chứng cứ này.
- Tính hợp pháp: Tất cả những gì có thật phải được cung cấp, thu thập, nghiên cứu, bảo quản theo một trình tự do luật định. Đây là trình tự nhằm bảo đảm giá trị chứng minh của chứng cứ.
Như vậy sau khi đã ra Quyết định không khởi tố vụ án hình sự, tất cả những hoạt động thu thập tài liệu, chứng cứ sẽ không có giá trị chúng minh nếu như không đảm bảo đủ 03 thuộc tính trên.
Trong thực tế, quá trình chứng minh trong giai đoạn tin báo nói riêng và các giai đoạn tố tụng nói chung, hoạt động sử dụng chứng cứ gắn liền với hoạt động đánh giá chứng cứ, đánh giá chứng cứ và sử dụng chứng cứ có mối quan hệ chặt chẽ không tách rời. Đánh giá chứng cứ là tiền đề, là điều kiện cho sử dụng chứng cứ. Sử dụng chứng cứ là sự kiểm nghiệm, xác định lại kết quả của hoạt động đánh giá chứng cứ. Nên Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng chỉ được sử dụng những chứng cứ đã được phát hiện, thu thập theo đúng qui định của pháp luật tố tụng hình sự. Các tài liệu, chứng cứ thu thập được qua biện pháp điều tra, trinh sát, phải được chuyển hóa thành chứng cứ hợp pháp mới được sử dụng. Những tài liệu, chứng cứ phải được kiểm tra, xác minh đầy đủ, phải đảm bảo đầy đủ ba thuộc tính của chứng cứ, phải phù hợp với thực tế khách quan, đảm bảo sự tin cậy vững chắc và có đủ căn cứ mới sử dụng được.
Xem thêm>>>
Về kiểm sát việc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự
Các căn cứ để không khởi tố một vụ án hình sự theo BLTTHS năm 2015
-
1Một số giải pháp phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép
-
2Cần hoàn thiện quy định về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
-
3Một số vướng mắc trong giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước trong tố tụng hình sự thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân
-
4Quy định về đương nhiên xóa án tích - bất cập và kiến nghị hoàn thiện
-
5VKSND thành phố Hà Nội phối hợp tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm trực tuyến vụ án dân sự phúc thẩm “Đòi quyền sử dụng đất nhà thờ họ”
-
6VKSND huyện Phú Hòa kiến nghị khắc phục, phòng ngừa vi phạm pháp luật qua công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính
-
7Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp pháp luật trong điều tra, xử lý tội phạm tuyên truyền chống nhà nước Việt Nam
Bài viết chưa có bình luận nào.