Vướng mắc khi áp dụng tình tiết “người già yếu” trong Bộ luật hình sự

29/06/2018 07:09

(kiemsat.vn)
Khái niệm “Người già yếu” quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015, đến nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể, gây khó khăn trong áp dụng pháp luật.

Điểm c khoản 1 Điều 134 (Tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điểm c khoản 2 Điều 137 (Tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ); điểm a khoản 2 Điều 140 (Tội hành hạ người khác); điểm e khoản 2 Điều 168 (Tội cướp tài sản); điểm c khoản 2 Điều 170 (Tội cưỡng đoạt tài sản); điểm g khoản 2 Điều 170 (Tội cướp giật tài sản); điểm d khoản 2 Điều 373 (Tội dùng nhục hình) và điểm c khoản 2 Điều 374 (Tội bức cung) Bộ luật Hình sự năm 2015 vẫn quy định “Người già yêu” là tình tiết định khung, nhưng hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn như thế nào là “Người già yếu”.

Điểm o khoản 1 Điều 51 (tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự) và điểm i khoản 1 Điều 52 (tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự) Bộ luật Hình sự đã bãi bỏ khái niệm “người già” và thay bằng khái niệm “người đủ 70 tuổi trở lên”.

Ảnh minh họa

Hiện nay, hệ thống pháp luật Việt Nam mới chỉ có khái niệm “Người cao tuổi” quy định Điều 2 Luật người cao tuổi. Tại Tiểu mục 2.4 Mục 2 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán TANDTC thì“Người già” được xác định là người từ 70 tuổi trở lên và tại điểm a tiểu mục 4.1 Mục 4 Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC thì “Người quá già yếu” được xác định là người từ 70 tuổi trở lên hoặc người từ 60 tuổi trở lên nhưng thường xuyên đau ốm. Riêng đối với khái niệm “Người già yếu” quy định tại các điều luật nói trên của Bộ luật Hình sự năm 2015, đến nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể, gây khó khăn trong áp dụng pháp luật.

Ví dụ: Mai Văn T cướp giật túi xách bên trong có số tiền 500.000 đồng của ông Lê Viết H, đến thời điểm thực hiện hành vi phạm tội người bị hại H đã 80 tuổi, nhưng vẫn không thể áp dụng tình tiết “Người giá yếu” để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với T. Bởi vì, quá trình điều tra ông H không hợp tác và cho rằng, tôi đã 80 tuổi là “Người già”, nhưng không “yếu”, bản thân tôi vẫn tự lập được, sống không phụ thuộc ai, vẫn lao động để nuôi sống bản thân. Trường hợp này, nếu áp dụng tình tiết “Người giá yếu” thì T phạm tội theo quy định tại khoản 2 Điều 171 (khung hình phạt 3-10 năm tù), nếu không áp dụng tình tiết “Người giá yếu” thì T chỉ phạm tội theo quy định tại khoản 1 Điều 171 (khung hình phạt 01-05 năm tù).

Theo chúng tôi, tại Điều 51 và Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 khái niệm “Người già” được loại bỏ thì khái niệm “Người già yếu”“Người quá già yếu” không còn căn cứ để áp dụng pháp luật. Do đó, các điều luật nói trên vẫn giữ khái niệm “Người già yếu’ để làm căn cứ định khung là không phù hợp, thiếu tính khả thi và thiếu thống nhất trong quy định của Bộ luật Hình sự. Để khắc phục vấn đề này, thiết nghĩ liên ngành Trung ương cần có văn bản hướng dẫn theo hướng“Người già yếu” là người từ đủ 70 tuổi trở lên hoặc là người đủ 60 tuổi đến dưới 70 tuổi nhưng thường xuyên đau ốm hoặc là sửa đổi theo hướng “Người già yếu” thành khái niệm “Người từ 70 tuổi trở lên”.

(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang