Đổi mới chế độ thông tin, báo cáo và quản lý công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân

25/01/2025 22:02

(kiemsat.vn)
Đổi mới và nâng cao chất lượng chế độ thông tin, báo cáo gắn với ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số góp phần nâng cao hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành và quản lý công tác của ngành Kiểm sát nhân dân nhằm đo lường, đánh giá chính xác kết quả, hiệu quả công việc, phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành, đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn mới.

Đổi mới và nâng cao chất lượng chế độ thông tin, báo cáo gắn với ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số góp phần nâng cao hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành và quản lý công tác. Việc xây dựng, hoàn thiện các quy định về chỉ tiêu, chỉ số, hệ thống thông tin thu thập, tổng hợp, phân tích số liệu phải được thiết kế đồng bộ với quy định, quy chế nghiệp vụ của ngành Kiểm sát nhân dân nhằm đo lường, đánh giá chính xác kết quả, hiệu quả công việc, phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành, đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn mới.

Chế độ thông tin, báo cáo và quản lý công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân thực hiện theo Quy chế về chế độ thông tin, báo cáo và quản lý công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân ban hành kèm theo Quyết định số 279/QĐ-VKSTC ngày 01/8/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao. Quy chế này quy định về việc tiếp nhận, thu thập, xử lý và cung cấp thông tin của Viện kiểm sát các cấp; việc xây dựng, gửi báo cáo của Viện kiểm sát các cấp; việc xây dựng và tổ chức thực hiện và kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện chỉ thị, kế hoạch, chương trình công tác.

Quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, nhiệm vụ khác của ngành Kiểm sát nhân dân đều tuân thủ theo các quy định, quy chế nghiệp vụ với những quy định cụ thể về việc thông tin, báo cáo liên quan. Chế độ báo cáo thống kê thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp và thống kê vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp (ban hành kèm theo Quyết định số 560/QĐ-VKSTC ngày 13/11/2019 của Viện trưởng VKSND tối cao) và hệ thống mẫu sổ nghiệp vụ trong ngành Kiểm sát nhân dân (ban hành kèm theo Quyết định số 359/QĐ-VKSTC ngày 07/10/2020 của Viện trưởng VKSND tối cao) được triển khai thực hiện thống nhất, cơ bản bảo đảm đáp ứng yêu cầu về chế độ thông tin, báo cáo và quản lý công tác của ngành Kiểm sát nhân dân trong thời gian qua.

Yêu cầu về đổi mới chế độ thông tin, báo cáo và quản lý công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân

Về thời gian, thời điểm sơ kết, tổng kết công tác:

Theo Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015, Nghị quyết số 96/2014/QH14 ngày 27/11/2019 của Quốc hội về công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, công tác của VKSND, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án (Nghị quyết số 96/2019) và Quy chế về chế độ thông tin, báo cáo và quản lý công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân thì việc sơ kết, tổng kết công tác của toàn ngành phải thực hiện vào 04 thời điểm khác nhau với 05 báo cáo, cụ thể: (1) Báo cáo công tác của ngành Kiểm sát nhân dân gồm 02 kỳ với 02 báo cáo: Kỳ 06 tháng (số liệu từ ngày 01/12 của năm trước đến ngày 31/5 của năm báo cáo) và kỳ 12 tháng (số liệu từ ngày 01/12 của năm trước đến ngày 30/11 của năm báo cáo); (2) Báo cáo công tác của Viện trưởng VKSND tối cao tại kỳ họp Quốc hội gồm 03 kỳ với 03 báo cáo: Kỳ 06 tháng (số liệu từ ngày 01/10 của năm trước đến ngày 31/3 của năm báo cáo), kỳ 10 tháng (số liệu từ ngày 01/10 của năm trước đến ngày 31/7 của năm báo cáo) và kỳ 12 tháng (số liệu từ ngày 01/10 của năm trước đến ngày 30/9 của năm báo cáo).

Phiên họp thứ 37 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 13/9/2024 đã cho ý kiến nghiên cứu sửa đổi Điều 13 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 theo hướng xem xét phương án thay đổi thời điểm lấy số liệu báo cáo của các đơn vị từ ngày 01/01 đến hết ngày 31/12 của năm báo cáo; đồng thời, sẽ thay đổi thời điểm xem xét các báo cáo của các cơ quan tư pháp. Sau khi Quốc hội thông qua việc sửa đổi Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, sửa đổi về thời gian báo cáo sơ kết, tổng kết trong Nghị quyết số 96/2019 thì cần phải nghiên cứu sửa đổi quy chế về chế độ thông tin, báo cáo và quản lý công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân bảo đảm về thời gian, thời điểm sơ kết, tổng kết công tác. Trước mắt, có thể điều chỉnh thời gian sơ kết, tổng kết cùng thời điểm xây dựng báo cáo công tác của Viện trưởng VKSND tối cao tại các kỳ họp Quốc hội.

Một số yêu cầu về đổi mới chế độ thông tin, báo cáo và quản lý công tác:

- Quy định thống nhất về chế độ thông tin, báo cáo và quản lý công tác:

Hoàn thiện quy định thống nhất về chế độ thông tin, báo cáo và quản lý công tác theo hướng đổi mới, giảm gánh nặng hành chính trong công tác báo cáo, thực hiện theo nguyên tắc, quy trình, kỳ báo cáo và thời hạn gửi báo cáo thống nhất, đồng bộ; có cơ chế chia sẻ, sử dụng hiệu quả, thống nhất nguồn thông tin từ các báo cáo, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ tham mưu giúp Viện trưởng VKSND tối cao về kế hoạch, nhiệm vụ công tác; về quản lý, chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nhân dân.

Để bảo đảm quy định thống nhất chế độ thông tin, báo cáo và quản lý công tác thì phải đồng thời hoàn thiện chế độ thống kê của ngành Kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn mới. Trong đó, phải đồng bộ hệ thống chỉ tiêu thống kê thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp và thống kê vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp với các biểu mẫu thống kê, hệ thống mẫu sổ nghiệp vụ, các chỉ tiêu theo hệ thống chỉ tiêu cơ bản đánh giá kết quả công tác nghiệp vụ trong ngành Kiểm sát nhân dân (ban hành kèm theo Quyết định số 139/QĐ-VKSTC), các chỉ tiêu trong Nghị quyết số 96/2019. Từ đó, xây dựng, hoàn thiện đầy đủ, chi tiết hệ thống biểu mẫu thống kê, bảo đảm theo dõi số liệu nghiệp vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp (bao gồm cả hướng dẫn cách tính, phương pháp thống kê số liệu, hệ thống biểu mẫu thống kê chỉ tiêu công tác). Hướng tới mục tiêu: (1) Cung cấp thông tin kịp thời, chính xác, đầy đủ (tối ưu quy trình, giảm thiểu thời gian, chi phí, nhân lực), phục vụ hiệu quả cho hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành của Viện trưởng VKSND các cấp; (2) Thực hiện công tác quản lý, theo dõi, tổng hợp tình hình hoạt động của ngành Kiểm sát nhân dân; xây dựng các báo cáo công tác của ngành Kiểm sát nhân dân trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; báo cáo Chủ tịch nước và báo cáo khác với cơ quan Đảng, Nhà nước theo yêu cầu; (3) Nội dung chế độ báo cáo phù hợp với quy định tại các văn bản do Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan, người có thẩm quyền thuộc hệ thống hành chính Nhà nước ban hành; (4) Các số liệu yêu cầu báo cáo phải đồng bộ, thống nhất về khái niệm, phương pháp tính và đơn vị tính để bảo đảm thuận lợi cho việc tổng hợp, chia sẻ thông tin, báo cáo; (5) Giảm tối đa yêu cầu về tần suất báo cáo nhằm tiết kiệm thời gian, chi phí, nhân lực trong thực hiện chế độ thông tin, báo cáo.

- Hoàn thiện quy định về chế độ thông tin, báo cáo và quản lý công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân và hệ thống biểu mẫu báo cáo gắn với công tác quản lý án và hệ thống chỉ tiêu, chế độ báo cáo thống kê gắn với ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số:

Trong bối cảnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số đang giữ vai trò quan trọng trong xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số và phát triển kinh tế số, việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số công tác văn phòng nói chung và đổi mới chế độ thông tin, báo cáo và quản lý công tác nói riêng càng trở nên cấp thiết, góp phần nâng cao năng suất, hiệu quả công việc; là “chìa khóa” để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong tham mưu, phục vụ có hiệu quả hoạt động lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo, điều hành của Thủ trưởng các đơn vị, lãnh đạo VKSND các cấp.

Năm 2025, toàn ngành Kiểm sát nhân dân tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số, xác định đây là khâu đột phá trọng tâm, là quá trình xác lập một phương thức làm việc mới tiên tiến, hiện đại nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, hướng tới đưa các hoạt động hành chính, một số hoạt động nghiệp vụ của ngành lên môi trường số, từng bước xác lập mô hình VKSND số; tập trung mọi nguồn lực, các điều kiện cần thiết để đưa nền tảng quản lý án hình sự ngành Kiểm sát nhân dân vào hoạt động, xác định đây là nhiệm vụ then chốt về chuyển đổi số của ngành Kiểm sát nhân dân; chú trọng triển khai bảo đảm an toàn, an ninh mạng và bảo vệ bí mật công tác, coi đây là điều kiện tiên quyết, là yếu tố xuyên suốt để thực hiện thành công chuyển đổi số; hình thành Cổng dữ liệu số ngành Kiểm sát nhân dân, từng bước kết nối, liên thông với các cơ sở dữ liệu quốc gia, các hệ thống thông tin của của Công an, Tòa án; thông qua việc tổng hợp, phân tích dữ liệu số để đề xuất các giải pháp tăng cường phòng ngừa, đấu tranh với các loại tội phạm.

Quá trình nghiên cứu đổi mới chế độ thông tin, báo cáo và quản lý công tác cần hướng tới đáp ứng yêu cầu cấp thiết về ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, bảo đảm liên thông trong nội bộ ngành Kiểm sát nhân dân và liên thông với các cơ tư pháp liên quan, cụ thể:

(1) Về lĩnh vực hình sự: Xây dựng phần mềm (mô-đun) về sổ thụ lý nghiệp vụ về hình sự. Việc xây dựng các mô-đun quản lý án phải bảo đảm phù hợp và điều chỉnh hoặc bổ sung các cột, mục, trường dữ liệu tương đồng với với hệ thống mẫu sổ nghiệp vụ về hình sự. Bảo đảm vai trò của VKSND trong chủ trì thực hiện thông tư liên tịch quy định phối hợp giữa các cơ quan trong thống kê hình sự.

(2) Về lĩnh vực dân sự: Xây dựng phần mềm (mô-đun) về sổ thụ lý nghiệp vụ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính. Bảo đảm vai trò của VKSND trong phối hợp trong thống kê thi hành án dân sự, theo dõi thi hành án hành chính liên ngành.

(3) Nền tảng Bàn làm việc số gồm một số mô-đun cơ bản, bao gồm: Quản lý văn bản và điều hành; hệ thống phòng họp không giấy; hệ thống theo dõi việc thực hiện nhiệm vụ do lãnh đạo VKSND các cấp chỉ đạo; hệ thống xác thực tập trung ngành Kiểm sát nhân dân… Hoàn thiện các phần mềm liên quan đến công tác xây dựng Đảng, tổ chức cán bộ; thi đua - khen thưởng; quản lý đầu tư xây dựng, kế hoạch - tài chính, tài sản công… bảo đảm kết nối, tích hợp chung để quản lý trên môi trường số toàn diện công tác của VKSND.

(4) Thông qua công tác quản lý, phân cấp quản lý phần mềm quản lý án, VKSND cấp trên có thể kết nối trực tiếp vào hệ thống của VKSND cấp dưới để khai thác thông tin, số liệu, dữ liệu phục vụ công tác (số liệu, chỉ tiêu cơ bản, phản ánh quá trình giải quyết vụ việc theo các giai đoạn tố tụng; số liệu về kết quả, tiến độ thực hiện chức năng, nhiệm vụ, chỉ tiêu cơ bản của các khâu công tác kiểm sát,…), bảo đảm chính xác và tức thời, hướng tới không phải phụ thuộc nhiều vào việc báo cáo số liệu bằng văn bản.

(5) Để khai thác được thông tin, số liệu, dữ liệu, báo cáo trực tuyến, phải có một khung báo cáo tổng thể duy nhất VKSND các cấp (đặc thù lĩnh vực công tác của các đơn vị thuộc VKSND tối cao, VKSND cấp cao, VKSND cấp tỉnh, VKSND cấp huyện và hệ thống Viện kiểm sát quân sự).

(6) Thu thập thông tin, số liệu từ nhiều nguồn khác nhau một cách tự động, giảm thiểu công sức và thời gian cần thiết so với cách làm thủ công, kết quả đánh giá tự động, nhanh chóng, giúp tạo ra các báo cáo chi tiết và kịp thời, phục vụ cho các công tác khác. Số liệu, dữ liệu báo cáo chỉ cần cung cấp 01 lần duy nhất trong kỳ báo cáo và được sử dụng nhiều lần cho các đối tượng liên quan khác nhau (tiếp tục thực hiện nghiêm việc xác thực số liệu báo cáo thống kê, bảo đảm tính chính xác của số liệu và số liệu được hiệu chỉnh nếu có).

Quá trình xây dựng, hoàn thiện các phần mềm phải lưu ý xây dựng đầy đủ các trường dữ liệu để phục vụ việc cập nhật, trích xuất được thông tin, số liệu, dữ liệu, từ đó đáp ứng được việc cung cấp thông tin và đánh giá, phân tích được kết quả công tác gắn với hệ thống chỉ tiêu cơ bản đánh giá kết quả công tác nghiệp vụ trong ngành Kiểm sát nhân dân và chỉ tiêu công tác khác theo yêu cầu của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, cũng như đáp ứng yêu cầu về thông tin, báo cáo, quản lý công tác trong phối hợp với các cơ quan tư pháp, cơ quan liên quan.

Một số đề xuất và giải pháp

Một là, hoàn thiện thể chế, tổ chức bộ máy Văn phòng:

Cùng với việc thực hiện quyết liệt chủ trương về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 181-NQ/BCSĐ ngày 19/11/2024 của Ban cán sự Đảng VKSND tối cao về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức, bộ máy trong ngành Kiểm sát nhân dân tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; cần nghiên cứu mô hình, tổ chức bộ máy Văn phòng VKSND các cấp bảo đảm về vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu tham mưu cho lãnh đạo VKSND các cấp trong quản lý, chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nhân dân. Xây dựng kế hoạch sửa đổi, hoàn thiện quy chế về chế độ thông tin, báo cáo và quản lý công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân bảo đảm đồng bộ với các quy định, quy chế liên quan. Theo đó, cần hoàn thiện đồng bộ cơ chế tổ chức theo trục công tác tham mưu tổng hợp, liên thông giữa các bộ phận thu thập và quản lý thông tin, quản lý án, thống kê, tham mưu tổng hợp. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác, cơ chế vận hành, trách nhiệm cụ thể trên cơ sở tính đảng, tính hợp lý, tính hợp pháp, bảo đảm hoạt động thông suốt, hiệu lực, hiệu quả. Thực hiện nghiêm nguyên tắc một đơn vị thực hiện nhiều việc, một việc chỉ giao một cơ quan chủ trì và chịu trách nhiệm chính; khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, chia cắt về các đơn vị, lĩnh vực công tác.

Bộ máy làm công tác tham mưu và cán bộ tham mưu có một vị trí vô cùng quan trọng trong hệ thống Đảng và được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm ngay từ những ngày đầu sáng lập Đảng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ tham mưu là người tư vấn, giúp cán bộ lãnh đạo nắm được tình hình để có những quyết sách đúng đắn trong hoạt động quản lý, lãnh đạo của mình. Bố trí sử dụng cán bộ, xây dựng cơ chế đặc thù riêng cho cán bộ trong bộ máy tham mưu theo hướng khuyến khích nhân sự chất lượng cao, linh hoạt trong bổ nhiệm chức vụ, chức danh tư pháp.

Hai là, bảo đảm Văn phòng VKSND các cấp trở thành đơn vị tiên phong, dẫn đầu trong ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số nhằm xây dựng Văn phòng số hiện đại, hiệu quả, hướng tới mô hình Văn phòng thông minh trong tương lai:

Xây dựng Văn phòng thông minh (Smart Office) không chỉ là một khái niệm mới mà còn là xu hướng tất yếu của Văn phòng VKSND các cấp. Trong bối cảnh đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy trong ngành Kiểm sát nhân dân tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đặt ra yêu cầu mới cho Văn phòng VKSND các cấp. Đổi mới chế độ thông tin, báo cáo và quản lý công tác là một trong những nhiệm vụ quan trọng gắn liền với quá trình đổi mới công tác, nhất là việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số nhằm xây dựng Văn phòng số hiện đại, hiệu quả góp phần nâng cao hiệu quả tham mưu cho lãnh đạo VKSND các cấp trong công tác chỉ đạo, điều hành.

Quá trình thiết lập Cổng dữ liệu ngành Kiểm sát nhân dân cần nghiên cứu đồng thời mô hình cập nhật dữ liệu báo cáo; phân định quyền hạn, trách nhiệm cụ thể; quản lý, vận hành, khai thác phải bảo đảm đầy đủ, chính xác và kịp thời, thống nhất giữa VKSND các cấp, mà trung tâm là Văn phòng VKSND các cấp với mục đích thiết lập đã được xác định (là công cụ tự động hóa tính toán các chỉ tiêu nghiệp vụ, tổng hợp số liệu từ các biểu mẫu liên ngành và tích hợp các báo cáo thống kê theo yêu cầu quản lý từ VKSND cấp huyện tới VKSND tối cao; từng bước chuẩn hoá, tích hợp, liên thông dữ liệu trong ngành Kiểm sát nhân dân và giữa ngành Kiểm sát nhân dân với các cơ quan tố tụng để phục vụ việc thống kê hình sự, thống kê tư pháp liên ngành; tích hợp, chia sẻ dữ liệu với các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu của các bộ, ban, ngành, địa phương; áp dụng các công nghệ tiên tiến như trí tuệ nhân tạo (AI), phân tích dữ liệu lớn (big data) để nâng cao khả năng phân tích, dự đoán, quản lý dữ liệu và từ đó tham mưu, đề xuất chính sách về phòng, chống tội phạm của ngành Kiểm sát nhân dân.

Ngoài ra, cần tập trung đầu tư, phát triển cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc; bảo đảm hạ tầng kỹ thuật, công nghệ, an toàn, an ninh thông tin phục vụ xây dựng, vận hành hệ thống thông tin, báo cáo để Văn phòng VKSND các cấp hoạt động đồng bộ, thống nhất.

Đỗ Thành Trường

Kiên quyết khắc phục tâm lý nể nang, ngại va chạm, dẫn đến bỏ lọt vi phạm

(Kiemsat.vn) - VKSND tối cao (Vụ 10) vừa ban hành hướng dẫn công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật năm 2025.
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang