Bất cập trong tạm ngừng phiên tòa dân sự

03/05/2018 10:22

(kiemsat.vn)
Tạm ngừng phiên tòa dân sự là một quy định mới của BLTTDS năm 2015. Tuy nhiên, thực tế áp dụng quy định này còn một số bât cập chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của đương sự, những người tham gia tố tụng khác.

Ảnh mnh họa

Tạm ngừng phiên tòa có thể hiểu là việc phiên tòa không tiếp tục các hoạt động tố tụng trong một thời hạn nhất định khi có các căn cứ do pháp luật tố tụng dân sự quy định.

Điều 259 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định:

1. Trong quá trình xét xử, Hội đồng xét xử có quyền quyết định tạm ngừng phiên tòa khi có một trong các căn cứ sau đây:

a) Do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà người tiến hành tố tụng không thể tiếp tục tiến hành phiên tòa, trừ trường hợp thay thế được người tiến hành tố tụng;

b) Do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa, trừ trường hợp người tham gia tố tụng có yêu cầu xét xử vắng mặt;

c) Cần phải xác minh, thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ mà nếu không thực hiện thì không thể giải quyết được vụ án và không thể thực hiện được ngay tại phiên tòa;

d) Chờ kết quả giám định bổ sung, giám định lại;

đ) Các đương sự thống nhất đề nghị Tòa án tạm ngừng phiên tòa để họ tự hòa giải;

e) Cần phải báo cáo Chánh án Tòa án để đề nghị sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật theo quy định tại Điều 221 của Bộ luật này.

2. Việc tạm ngừng phiên tòa phải được ghi vào biên bản phiên tòa. Thời hạn tạm ngừng phiên tòa là không quá 01 tháng, kể từ ngày Hội đồng xét xử quyết định tạm ngừng phiên tòa. Hết thời hạn này, nếu lý do để ngừng phiên tòa không còn thì Hội đồng xét xử tiếp tục tiến hành phiên tòa; nếu lý do để ngừng phiên tòa chưa được khắc phục thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Hội đồng xét xử phải thông báo bằng văn bản cho những người tham gia tố tụng và Viện kiểm sát cùng cấp về thời gian tiếp tục phiên tòa.

 

Đây là quy định mới của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 so với Bộ luật Tố tụng dân sự 2004. Theo đó, khi có một trong những căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 259 BLTTDS, Hội đồng xét xử có quyền ra quyết định tạm ngừng phiên tòa. Khi không còn lý do tạm ngừng phiên tòa, vụ án tiếp tục được xét xử và việc xét xử này là sự tiếp nối quá trình tố tụng của phiên tòa đã mở trước khi tạm ngừng, không phải xét xử lại từ đầu. Quy định này nhằm đảm bảo việc xét xử nhanh chóng, tránh kéo dài thời gian giải quyết vụ án.

Tuy nhiên, thực tế áp dụng quy định này còn một số bất cập như sau:

Thứ nhất, trường hợp phiên tòa không có sự tham gia của Viện kiểm sát. Nhưng tại phiên tòa phải tạm ngừng với lý do cần phải xác minh, thu thập chứng cứ theo điểm c khoản 1 Điều 259. Khi thực hiện việc thu thập chứng cứ xong, thuộc trường hợp Viện kiểm sát bắt buộc phải tham gia phiên tòa theo khoản 2 Điều 21 BLTTDS. Vậy việc tiếp tục phiên tòa sẽ diễn ra như thế nào? Kiểm sát viên tiến hành tố tụng từ giai đoạn tiếp theo hay phiên tòa phải xét xử lại từ đầu?

Thứ hai, theo khoản 2 Điều 259BLTTDS, việc tạm ngừng phiên tòa do Hội đồng xét xử quyết định và công bố tại phiên tòa, việc tạm ngừng chỉ phải ghi vào biên bản mà không phải lập văn bản riêng. Như vậy, đối với những trường hợp người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa sẽ không biết được việc tạm ngừng phiên tòa, căn cứ tạm ngừng phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Đồng thời, nếu lý do tạm ngừng là tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất kháng, trở ngại khách quan mà Thư ký không thể tiến hành tiếp tục phiên tòa thì ai là người ghi vào biên bản việc tạm ngừng phiên tòa?

Thứ ba, theo quy định khi hết thời hạn tạm ngừng phiên tòa, lý do tạm ngừng chưa được khắc phục Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ phiên tòa - có nghĩa Tòa án vẫn phải tiếp tục mở lại phiên tòa để Hội đồng xét xử tiến hành thảo luận để ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án, việc mở lại phiên tòa, triệu tập đương sự chỉ mỗi việc để Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án là bất cập, gây lãng phí cho Nhà nước, thời gian của các đương sự.

Thứ tư, pháp luật có quy định khi hết thời hạn tạm ngừng phiên tòa, lý do ngừng phiên tòa không còn thì Hội đồng xét xử tiếp tục tiến hành phiên tòa. Hội đồng xét xử phải thông báo bằng văn bản cho những người tham gia tố tụng và Viện kiểm sát cùng cấp về thời gian tiếp tục phiên tòa. Tuy nhiên, pháp luật chưa có quy định trong thời hạn bao nhiêu ngày kể từ khi lý do tạm ngừng không còn thì Hội đồng xét xử phải  tiếp tục phiên tòa. Việc quy định phải thông báo về thời gian mở lại phiên tòa nhưng không ấn định thời hạn phải mở lại phiên tòa là bao nhiêu cũng là nguyên nhân dẫn đến việc giải quyết vụ án bị chậm, kéo dài. Mặt khác, khi chưa hết thời hạn tạm ngừng mà lý do tạm ngừng không còn thì hội đồng xét xử có được thông báo tiếp tục phiên tòa không hay theo quy định phải hết thời hạn tạm ngừng mới được tiếp tục?

Với những khó khăn, bất cập trong thực tế áp dụng pháp luật nêu trên, thiết nghĩ, liên ngành tư pháp Trung ương cần có văn bản hướng dẫn cụ thể để thống nhất áp dụng pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích của những người tham gia tố tụng.

Xem thêm>>>

Thời điểm và thẩm quyền ra quyết định hoãn phiên tòa hình sự theo BLTTHS 2015

Dấu hiệu để phân biệt giữa “Hoãn phiên tòa” và “Tạm ngừng phiên tòa” theo quy định của BLTTHS năm 2015

“Hoãn phiên tòa” theo quy định của BLTTDS năm 2015

 

(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang