Audio: Công tác hợp tác quốc tế và tương trợ tư pháp về hình sự của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn mới

28/07/2025 09:13

(kiemsat.vn)
Tạp chí Kiểm sát xin trân trọng giới thiệu đến bạn đọc bài viết “Công tác hợp tác quốc tế và tương trợ tư pháp về hình sự của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn mới” của Tiến sĩ Nguyễn Quang Dũng, Phó Viện trưởng VKSND tối cao, được đăng trên TCKS số 14/2025.

Công tác hợp tác quốc tế và tương trợ tư pháp về hình sự của Viện kiểm sát nhân dân trong thời gian qua đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Để tiếp tục thực hiện tốt công tác này và nâng cao vị thế của ngành Kiểm sát nhân dân, cần triển khai đồng bộ các giải pháp như: Hoàn thiện pháp luật về tương trợ tư pháp hình sự; tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực pháp luật, tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên; ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số…

1. Đường lối, chủ trương của Đảng chỉ đạo công tác hợp tác quốc tế và tương trợ tư pháp về hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thời gian qua

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (tháng 01/2016) xác định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; kiên trì thúc đẩy giải quyết các tranh chấp trên biển bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế. Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước”. Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng cũng đưa ra định hướng về công tác đối ngoại đa phương là “Chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc”.

Ngày 08/8/2018, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 25-CT/TW về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030 trong đó xác định mục tiêu cho công tác đối ngoại đa phương thời gian tới là: “Nỗ lực vươn lên đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt hoặc hòa giải tại các diễn đàn, tổ chức đa phương có tầm quan trọng chiến lược đối với đất nước”, phù hợp với khả năng và điều kiện cụ thể của nước ta. Việc vươn lên giữ vai trò quan trọng hơn tại các cơ chế đa phương then chốt sẽ góp phần nâng cao vị thế, tạo điều kiện cho Việt Nam có thể lồng ghép các ưu tiên, thúc đẩy những lợi ích của đất nước. Đây là văn bản chỉ đạo đầu tiên của Đảng ta về công tác đối ngoại đa phương của đất nước, đưa đối ngoại đa phương thành một nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, là một định hướng chiến lược quan trọng hàng đầu và là phương thức hiệu quả thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (tháng 01/2021) xác định: “Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, tạo môi trường hòa bình và điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước. Gắn kết chặt chẽ đối ngoại với quốc phòng, an ninh và phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; kiên trì, kiên định đường lối độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; đẩy mạnh đưa quan hệ với các đối tác, đặc biệt là đối tác quan trọng, đi vào chiều sâu, hiệu quả, bền vững, tăng cường đan xen lợi ích; xử lý linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả mối quan hệ với các nước lớn. Đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương, kết hợp chặt chẽ với đối ngoại song phương, thực hiện tốt các trọng trách quốc tế, nhất là trong ASEAN, Liên hợp quốc và các khuôn khổ hợp tác ở châu Á - Thái Bình Dương. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả công tác đối ngoại của Đảng với ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân. Theo dõi sát diễn biến tình hình biển Đông, kiên trì, kiên quyết bảo vệ các lợi ích chính đáng của Việt Nam phù hợp với luật pháp quốc tế, giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982”.

Trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 39-CT/TW về hợp tác với nước ngoài về pháp luật, cải cách hành chính, cải cách tư pháp, ngày 20/5/2020, Ban Bí thư đã ban hành Kết luận số 73-KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 39-CT/TW, cụ thể là 05 nguyên tắc, định hướng và 08 nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra trong Chỉ thị số 39-CT/TW.

Hiện nay, cùng với tinh thần đổi mới về sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo Nghị quyết số 18, Bộ Chính trị đã ban hành một loạt văn bản chỉ đạo có tính chất chiến lược, trong đó có Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới. Quan điểm xuyên suốt của Nghị quyết là: Hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân tộc, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp và toàn diện của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể sáng tạo.

Nghị quyết đã đề ra những định hướng chiến lược toàn diện và sâu sắc như: (i) Về kinh tế: Đẩy mạnh hội nhập gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, hiện đại; phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; nâng cao năng lực cạnh tranh dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; (ii) Về chính trị, quốc phòng, an ninh: Hội nhập đi đôi với củng cố quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, tăng cường tin cậy chính trị, giữ vững độc lập, chủ quyền và môi trường hòa bình, ổn định cho đất nước; (iii) Về khoa học, công nghệ, giáo dục, y tế, môi trường: Tận dụng hội nhập để nâng cao trình độ quốc gia, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và hội nhập sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Có thể nói, Nghị quyết số 59-NQ/TW là “quyết sách đột phá,” đánh dấu bước ngoặt có tính lịch sử trong quá trình hội nhập để Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình tới thịnh vượng, hùng cường.

2. Những thành tựu đạt được trong công tác hợp tác quốc tế và tương trợ tư pháp về hình sự của Viện kiểm sát nhân dân

2.1. Những thành tựu đạt được

Trong giai đoạn từ năm 2016 đến nay, công tác hợp tác quốc tế và tương trợ tư pháp (TTTP) về hình sự của VKSND tối cao đã đạt được các kết quả nổi bật sau:

(i) Công tác đối ngoại, ký kết và thực hiện các thỏa thuận quốc tế:

Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ký 07 thỏa thuận hợp tác song phương với Viện kiểm sát, Viện công tố, cơ quan Tổng Chưởng lý các nước. Nội dung các thỏa thuận hợp tác tập trung vào các lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, Kiểm sát viên; nghiên cứu pháp luật, trao đổi kinh nghiệm chuyên môn; hợp tác trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, đặc biệt là tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia; phối hợp và ủng hộ nhau trên các diễn đàn quốc tế cùng tham gia…

Triển khai thực hiện các thỏa thuận hợp tác đã ký, VKSND tối cao đã tổ chức 85 đoàn đi thăm, làm việc tại nước ngoài; tổ chức đón 65 đoàn đại biểu Viện kiểm sát, Viện công tố các nước đến thăm, làm việc, trao đổi kinh nghiệm tại Việt Nam.

(ii) Tổ chức các hội nghị quốc tế:

(1) Hội nghị Viện trưởng Viện kiểm sát, Viện trưởng Viện công tố các nước ASEAN và Trung Quốc

Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã tổ chức 03 đoàn cấp cao đi dự Hội nghị Viện trưởng Viện kiểm sát, Viện công tố các nước ASEAN - Trung Quốc lần thứ 11, tổ chức tại Bru-nây năm 2018; hội nghị lần thứ 12 tổ chức tại Cam-pu-chia năm 2019; hội nghị lần thứ 14 tổ chức tại Xinh-ga-po năm 2024.

Đáng chú ý, tháng 12/2023, VKSND tối cao đã đăng cai tổ chức thành công Hội nghị lần thứ 13 tại Hà Nội với chủ đề “Tăng cường hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm công nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia”.

(2) Hội nghị VKSND các tỉnh có chung đường biên giới Việt Nam và Lào

Từ năm 2016 đến nay, VKSND tối cao hai nước đã phối hợp tổ chức được 03 kỳ hội nghị: Hội nghị lần thứ V được tổ chức tại tỉnh Quảng Nam (năm 2017); Hội nghị lần thứ VI tại Chăm-pa-sắc, Lào (năm 2019); Hội nghị lần thứ VII tại Hà Nội (năm 2022).

(3) Hội nghị Viện kiểm sát các tỉnh biên giới Việt Nam - Trung Quốc

Hội nghị đầu tiên được tổ chức tại tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc năm 2017 và hội nghị lần thứ hai được tổ chức tại tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam năm 2019.

Ngoài ra, nhằm tăng cường hợp tác đa phương, Vụ Hợp tác quốc tế và tương trợ tư pháp về hình sự đã tham mưu lãnh đạo Viện phối hợp với Viện Nghiên cứu tội phạm và xử lý người phạm tội khu vực Châu Á và Viễn Đông của Liên hợp quốc (UNAFEI) tổ chức 02 Hội thảo quản trị nhà nước khu vực Đông Nam Á lần thứ 11 (2017) tại thành phố Hà Nội với chủ đề: “Kinh nghiệm tốt trong đấu tranh chống tham nhũng: Một thập kỷ xây dựng thể chế và thực tiễn ở khu vực Đông Nam Á” và lần thứ 12 (2018) tại thành phố Đà Nẵng với chủ đề: “Những xu hướng mới nhất về tội phạm tham nhũng - Biện pháp đối phó của các quốc gia Đông Nam Á và Nhật Bản”. Đây là sự kiện có ý nghĩa, nhằm tăng cường hoạt động hợp tác đa phương giữa VKSND tối cao với các cơ quan thực thi pháp luật các nước trong công tác tranh phòng chống tội phạm, qua đó góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và quốc tế.

Viện kiểm sát nhân dân tối cao còn là thành viên tích cực của 08 cơ chế hợp tác đa phương về phòng chống tội phạm và TTTP về hình sự(1). Hiện nay, VKSND tối cao đang phối hợp với Cơ quan công tố các quốc gia ASEAN tích cực hoàn thiện thủ tục thành lập và gia nhập “Hội nghị Viện trưởng/Tổng Chưởng lý các nước ASEAN” - cơ chế hợp tác dành riêng cho Cơ quan kiểm sát, công tố các nước thành viên ASEAN.

(iii) Công tác đề xuất, ký kết các điều ước quốc tế:

Thực hiện chủ trương của Chiến lược cải cách tư pháp về việc tiếp tục ký kết hiệp định TTTP với các nước, trước hết là với các nước láng giềng, các nước trong khu vực và các nước có quan hệ truyền thống; căn cứ các quy định tại Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 và Luật TTTP năm 2007, VKSND tối cao đã xây dựng kế hoạch dài hạn đàm phán, ký kết điều ước quốc tế. Trên cơ sở đó, VKSND tối cao đã đề xuất cấp có thẩm quyền; chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành hữu quan đàm phán, ký thành công 14 hiệp định TTTP về hình sự với các nước(2). Đến nay, 10/14 hiệp định đã có hiệu lực.

(iv) Công tác nghiên cứu, xây dựng pháp luật:

Thực hiện yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ và chỉ đạo của lãnh đạo VKSND tối cao về sửa đổi Luật TTTP theo hướng tách, xây dựng thành các luật riêng biệt trong các lĩnh vực: Tương trợ tư pháp về dân sự, TTTP về hình sự, dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù. Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã trình Ủy ban thường vụ Quốc hội hồ sơ đề nghị xây dựng Luật TTTP về hình sự và đã được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội năm 2025. Hiện nay, VKSND tối cao đang hoàn thiện dự án Luật TTTP về hình sự trên cơ sở ý kiến của Quốc hội tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV để trình Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV.

Ngoài ra, để phục vụ việc xây dựng một số đề án của ngành Kiểm sát nhân dân, lãnh đạo VKSND tối cao đã chỉ đạo việc tổ chức thu thập tài liệu, nghiên cứu pháp luật các nước và quy định trong điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; tổ chức các buổi tọa đàm trực truyến, tổ chức các đoàn cấp cao đi nghiên cứu pháp luật tại các nước như: Trung Quốc, Hoa Kỳ, Đức và hoàn thiện nội dung 03 chuyên đề: (1) Nghiên cứu “Pháp luật một số quốc gia về khởi kiện dân sự trong trường hợp chủ thể các quyền dân sự là nhóm dễ bị tổn thương hoặc trường hợp liên quan đến bảo vệ lợi ích công nhưng không có người đứng ra khởi kiện”; (2) Nghiên cứu “Pháp luật một số quốc gia về cơ chế khởi kiện vụ án hành chính trong trường hợp các cơ quan quản lý nhà nước, các chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích công, lợi ích nhà nước”; (3) Nghiên cứu “Quy định về áp dụng hình phạt tử hình trong Công ước quốc tế và pháp luật của một số quốc gia trên thế giới; kinh nghiệm cho Việt Nam”.

(v) Công tác TTTP về hình sự:

Trên cơ sở quy định các hiệp định TTTP về hình sự giữa Việt Nam và các nước, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Luật TTTP năm 2007 và các văn bản hướng dẫn thi hành; thực hiện chức năng của cơ quan trung ương trong TTTP về hình sự, từ năm 2016 đến nay, VKSND tối cao đã tiếp nhận, xử lý 968 hồ sơ yêu cầu TTTP của nước ngoài; 3.468 hồ sơ yêu cầu TTTP của các cơ quan tiến hành tố tụng của Việt Nam gửi cho nước ngoài. Số liệu cho thấy thời gian gần đây, số lượng yêu cầu TTTP về hình sự nhìn chung có xu hướng gia tăng, đặc biệt là yêu cầu TTTP của Việt Nam gửi cho nước ngoài (yêu cầu đi). Năm 2017, số lượng yêu cầu đi tăng 49% so với năm 2016; năm 2019, số lượng yêu cầu đi tăng 75% so với năm 2018; năm 2020, số lượng yêu cầu đi tăng 30% so với năm 2019... Năm 2024, số lượng hồ sơ yêu cầu TTTP do VKSND tối cao thụ lý, giải quyết đã nhiều gấp 2,8 lần so với năm 2016. Trong giai đoạn này, VKSND tối cao đã thực hiện và chuyển giao 583 kết quả TTTP cho nước ngoài, 1.372 kết quả TTTP cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong nước.

Kết quả công tác TTTP trong thời gian qua đã giúp các cơ quan tiến hành tố tụng trong nước giải quyết được nhiều vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài, trong đó có một số vụ nghiêm trọng, phức tạp. Đáng chú ý, VKSND tối cao đã phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền trong nước và cơ quan Tổng Chưởng lý Xinh-ga-po thực hiện thành công yêu cầu TTTP về thu hồi tài sản về trong vụ án Phan Sào Nam và vụ án Giang Kim Đạt, tổng thu về cho Nhà nước Việt Nam 2.652.164,35 đô la Mỹ và 8.767.730,21 đô la Xinh-ga-po. Về thu hồi tài sản theo yêu cầu của nước ngoài, VKSND tối cao cũng đã khẩn trương, tích cực phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền trong nước hoàn thành việc thực hiện yêu cầu TTTP về thu hồi tài sản của Bun-ga-ry theo ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư. Kết quả đã chuyển trả toàn bộ số tiền 6.566.066,36 đô la Mỹ về Ngân hàng nhân dân Bun-ga-ry.

Hoạt động TTTP về hình sự cũng đã góp phần thực hiện tốt công tác bảo hộ công dân Việt Nam bị bắt, điều tra, truy tố, xét xử ở nước ngoài. Điển hình là hoạt động tương trợ liên quan đến công dân Việt Nam Nguyễn Thanh Ngọc Tuyết bị Tòa án cấp sơ thẩm Ma-lay-xi-a tuyên hình phạt tử hình về Tội vận chuyển trái phép chất ma túy (năm 2016).

Liên quan đến yêu cầu dẫn độ đối tượng Y Quynh Bdap (trong vụ án khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân xảy ra tại tỉnh Đắk Lắk), VKSND tối cao đã cử cán bộ tham gia đoàn công tác liên ngành sang Thái Lan tham dự các phiên tòa xem xét việc dẫn độ bị án Y Quynh Bdap; tích cực cung cấp chứng cứ, tài liệu để xuất trình trước Tòa, bảo vệ quan điểm. Kết quả, ngày 30/9/2024, Tòa hình sự sơ thẩm Thái Lan đã tuyên chấp nhận dẫn độ đối tượng Y Quynh Bdap về Việt Nam. Đây là lần đầu tiên một bản án hình sự của Việt Nam xử vắng mặt được Tòa án nước ngoài chấp nhận dẫn độ theo đề nghị của Việt Nam. Việc thực hiện thành công yêu cầu dẫn độ này có sự đóng góp không nhỏ của VKSND tối cao với vai trò là cơ quan trung ương trong TTTP về hình sự. 

(vi) Tăng cường năng lực cho cán bộ, Kiểm sát viên và hỗ trợ xây dựng thể chế:

Trong giai đoạn 2016 đến nay, VKSND tối cao đã tham gia thực hiện 19 chương trình, dự án, phi dự án hợp tác quốc tế với các đối tác nước ngoài hỗ trợ ngành Kiểm sát nhân dân, gồm: (1) Dự án “Hài hòa hóa pháp luật hiện hành và thống nhất áp dụng pháp luật hướng tới năm 2020” giai đoạn 2015 - 2020 của JICA; (2) Dự án “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật tại Việt Nam” giai đoạn 2021 - 2025 của JICA; (3) Chương trình hợp tác với Cơ quan hợp tác quốc tế Hàn Quốc giai đoạn 2016-2018 (dự án KOICA); (4) Dự án “Tăng cường pháp luật và tư pháp tại Việt Nam” (Dự án EU JULE) của Liên minh Châu Âu; (5) Dự án “Tăng cường tiếp cận tư pháp và bảo vệ người chưa thành niên có liên quan đến pháp luật” của UNICEF; (6) Chương trình hợp tác đối thoại Nhà nước pháp quyền giữa Việt Nam với Đức, giai đoạn 2015-2018 và 2022-2025; (7) Chương trình hợp tác với Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội trong khuôn khổ Thư thỏa thuận về trợ giúp thực thi pháp luật và tư pháp giữa Việt Nam - Hoa Kỳ do Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tài trợ; (8) Chương trình hợp tác giữa VKSND tối cao và Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP); (9) Chương trình hợp tác chính phủ ASEAN - Australia về phòng chống mua bán người tại Việt Nam (ASEAN - ACT); (10) Chương trình đào tạo nâng cao năng lực cho Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án buôn bán người (TIP); (11) Dự án quản trị Nhà nước nhằm tăng trưởng toàn diện (Dự án GIG);  (12) Chương trình hợp tác với Hiệp hội bảo tồn động vật hoang dã (WCS); (13) Chương trình hợp tác với Tổ chức bảo tồn loài hoang dã (Saving Species); (14) Dự án bảo vệ động vật hoang dã nguy cấp (WWF); (15) Dự án phòng, chống mua bán trái phép động vật hoang dã khu vực ASEAN (TRIPOD-2) do Bộ Công an làm chủ quản;  (16) Các hoạt động hợp tác với Văn phòng Liên hợp quốc về chống ma túy và tội phạm (UNODC); (17) Dự án nâng cao năng lực thực thi Công ước của Liên hợp quốc về phòng chống tham nhũng (UNCAC); (18) Dự án tăng cường năng lực và tăng cường cơ chế hợp tác chống tài trợ khủng bố khu vực Đông Nam Á do Viện Tư pháp và pháp quyền quốc tế thực hiện với sự tài trợ của Chính phủ Ca-na-da; (19) Hợp tác với Viện Nghiên cứu của Liên hợp quốc về tội phạm và xử lý người phạm tội khu vực Châu Á và Viễn Đông (UNAFEI) thực hiện thông qua chương trình trao đổi chuyên gia thường niên giữa VKSND tối cao và Viện nghiên cứu và đào tạo, Bộ Tư pháp Nhật Bản và cơ chế hội thảo về quản trị nhà nước khu vực Đông Nam Á về chủ đề phòng chống tham nhũng.

Kết quả đạt được như sau: Tổ chức 258 hội thảo, tập huấn chuyên sâu cho cán bộ Kiểm sát về triển khai thực hiện các đạo luật mới; kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp thuộc chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nhân dân; tổ chức 20 đoàn nghiên cứu pháp luật, khảo sát thực tế tại nước ngoài: Nhật, Đức, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Pháp, Italy...; xây dựng và xuất bản 60 sổ tay hướng dẫn kỹ năng nghiệp vụ cho Kiểm sát viên, cẩm nang, giáo trình, báo cáo nghiên cứu…; xây dựng các chương trình tập huấn, giáo trình đào tạo, tài liệu giảng dạy chuyên sâu về tội phạm mua bán người, động vật hoang dã... cho đối tượng là các Kiểm sát viên, học viên và sinh viên; trang bị thư viện Trường Đại học Kiểm sát gần 100 đầu sách pháp luật bằng tiếng Anh về các lĩnh vực pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, tội phạm học, dân sự, thương mại phục vụ công tác giảng dạy, nghiên cứu, học tập của giảng viên, sinh viên; trang bị 02 phòng họp trực tuyến cho nhà trường, tổ chức các phiên tòa hình sự giả định cho sinh viên…; xuất bản định kỳ trên tạp chí khoa học của ngành chuyên đề về phòng, chống mua bán người, buôn bán trái pháp luật động vật hoang dã; thực hiện các hoạt động tăng cường năng lực cho VKSND, thí điểm tại VKSND thành phố Hải Phòng (Dự án JICA).

(vii) Về tổ chức bộ máy làm công tác hợp tác quốc tế của ngành Kiểm sát nhân dân:

Giai đoạn hiện nay, khối lượng công việc ngày một gia tăng, tập thể Vụ hợp tác quốc tế và tương trợ tư pháp về hình sự với số lượng công chức hiện có là 23 người luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, cố gắng, nỗ lực phấn đấu hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.

2.2. Hạn chế và nguyên nhân

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động hợp tác quốc tế và TTTP về hình sự của VKSND thời gian qua cũng còn một số hạn chế: Việc triển khai hoạt động hợp tác với các đối tác nước ngoài đôi khi chưa được triển khai theo đúng cam kết trong các thỏa thuận hợp tác, bản ghi nhớ đã ký; hoạt động TTTP về hình sự trong một số trường hợp còn chưa đáp ứng được yêu cầu trong giải quyết các vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài. Nguyên nhân là do sự khác biệt về hệ thống chính trị giữa các quốc gia, cơ cấu tổ chức, bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan Viện kiểm sát/ Viện công tố các quốc gia cũng rất khác nhau; sự khác biệt về hệ thống pháp luật giữa các quốc gia; các hoạt động hợp tác bị gián đoạn trong khoảng thời gian xảy ra đại dịch Covid trên toàn cầu...; bộ máy công chức làm công tác hợp tác quốc tế và TTTP về hình sự còn thiếu so với chức năng, nhiệm vụ ngày càng gia tăng hiện nay.

3. Phương hướng, nhiệm vụ công tác hợp tác quốc tế và tương trợ tư pháp về hình sự của Viện kiểm sát nhân dân nhằm đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới

Một là, tiếp tục thực hiện chủ trương của Đảng về tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực pháp luật; coi đó là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cải cách tư pháp. Mở rộng hợp tác quốc tế để tranh thủ sự hỗ trợ về vật chất và kinh nghiệm quốc tế trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.

Hai là, tăng cường hợp tác với Viện kiểm sát, Viện công tố các nước có quan hệ truyền thống, các nước có nền tư pháp phát triển, các nước có mô hình công tố mạnh, các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực pháp luật, các cơ sở đào tạo cán bộ tư pháp của nước ngoài. Thực hiện đầy đủ và có hiệu quả các thoả thuận hợp tác đã ký và đẩy mạnh việc ký kết các thoả thuận hợp tác với Viện kiểm sát, Viện công tố và các cơ quan tư pháp các nước.

Ba là, tham gia tích cực và có trách nhiệm vào các cơ chế đa phương hợp tác trong lĩnh vực pháp luật. Chủ động tham gia giải quyết những vấn đề mang tính toàn cầu, những vấn đề an ninh truyền thống và phi truyền thống được cộng đồng quốc tế quan tâm như hợp tác trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, đặc biệt là tội phạm rửa tiền, tham nhũng, mua bán người và các loại tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia khác; nâng cao năng lực xây dựng và thực thi chức năng, nhiệm vụ; nâng cao trình độ ngoại ngữ và pháp luật quốc tế của cán bộ Kiểm sát nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.

Bốn là, hoàn thiện hệ thống pháp luật TTTP về hình sự; đẩy mạnh việc đàm phán, ký các điều ước quốc tế về TTTP hình sự, đặc biệt là với các nước láng giềng, các nước trong khu vực, các nước có quan hệ truyền thống, các nước có đông người Việt Nam sinh sống, các nước đối tác chiến lược, đối tác toàn diện của Việt Nam.

Năm là, thực hiện tốt việc tiếp nhận, giải quyết các yêu cầu TTTP hình sự, đảm bảo đúng pháp luật, hiệu quả và tiến độ; tăng cường công tác phối hợp giữa các đơn vị trong ngành Kiểm sát và giữa Viện kiểm sát với các cơ quan hữu quan có liên quan trong việc tiếp nhận và giải quyết các yêu cầu TTTP về hình sự.

Sáu là, tăng cường áp dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động hợp tác quốc tế và TTTP về hình sự; chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, đặc biệt là nâng cao trình độ ngoại ngữ và pháp luật quốc tế của cán bộ Kiểm sát nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế trong thời đại mới.

----------------------------------------------------------------------

(1) Hiệp hội Công tố viên quốc tế (IAP); (2) Hội nghị Viện trưởng Viện kiểm sát/Viện công tố các nước ASEAN - Trung Quốc; (3) Hội nghị Bộ trưởng/Viện trưởng các cơ quan trung ương về TTTP hình sự khu vực ASEAN (AMAG-MLAT); (4) Hội nghị quan chức cao cấp của cơ quan trung ương về TTTP về hình sự khu vực ASEAN (SOM-MLAT); (5) Mạng lưới liên quan thu hồi tài sản khu vực châu Á - Thái Bình Dương (ARIN-AP), (6) Mạng lưới hợp tác tư pháp không chính thức giữa các quốc gia khu vực ASEAN (SeaJust), (7) Diễn đàn hợp tác tư pháp về hình sự khu vực châu Á - Thái Bình Dương (Crim-AP) và (8) Mạng lưới toàn cầu của các cơ quan thực thi pháp luật về chống tham nhũng (GlobE Network).

(2) Hung-ga-ri, Ca-dắc-xtan, Cu-ba, Pháp, Mô-dăm-bích, Lào, Nhật Bản, U-dơ-bê-ki-xtan, Séc, I-ta-li-a, Ác-hen-ti-na, Các tiểu vương quốc Ả-rập thống nhất (UAE), I-ran, Xinh-ga-po.

 

PV
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang