Trao đổi bài viết: "Nguyễn Văn M tái phạm hay tái phạm nguy hiểm?"

Ngày đăng : 09:18, 10/10/2018

(Kiemsat.vn) - Đối với trường hợp của Nguyễn Văn M, Viện kiểm sát cần kháng nghị tái thẩm bản án năm 2016 để xét xử lại vụ án đúng với sự thật khách quan.

Sau khi đọc bài viết: Xác định Nguyễn Văn M tái phạm hay tái phạm nguy hiểm? của tác giả Trần Thị Thu Hiền - VKSND TP Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình đăng trên tạp chí Kiểm sát điện tử ngày 08/10/2018, tôi có ý kiến trao đổi như sau:

Kế thừa quy định về tái phạm và tái pham nguy hiểm của Điều 49 BLHS năm 2009, Điều 53 BLHS năm 2015 có quy định như sau: Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.

Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm: Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.

Ảnh minh họa

Việc xác định một người “tái phạm nguy hiểm” trong trường hợp này phải đảm bảo các dấu hiệu sau:

Một là, người phạm tội đã tái phạm. Có nghĩa rằng, trước lần bị đưa xét xử này, người phạm tội đã 02 lần bị kết án về tội phạm độc lập do Bộ luật Hình sự quy định. Đồng thời, trong lần bị kết án thứ hai trước đó, người phạm tội đã bị áp dụng tình tiết tái phạm.

Dấu hiệu tái phạm phải được xác định bằng quyết định hoặc bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi bản án đó chưa được xóa án tích, mà người này lại phạm tội mới thì mới coi là tái phạm nguy hiểm.

Mặc dù khoản 1 Điều 53 BLHS năm 2015 quy định về tình tiết tái phạm không nêu dấu hiệu phải được Tòa án xác định bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng, việc xác định tình tiết tái phạm không thể tiến hành một cách độc lập mà chúng phải gắn liền với việc xem xét trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Trong khi đó, theo BLHS, BLTTHS, việc tuyên một người có tội thuộc thẩm quyền của Tòa án, quyết định hình phạt cũng chỉ do Tòa án.

Đồng thời, khoản 1 Điều 53 BLHS năm 2015 chỉ nêu lên dấu hiệu để xác định tái phạm chứ không quy định trình tự, thủ tục, thẩm quyền xác định người phạm tội tái phạm. Cho nên, khi kết án người phạm tội ở lần thứ hai mà Tòa án không xác định người phạm tội tái phạm thì về nguyên tắc khi xét xử tội mới, Tòa án không được áp dụng tái phạm nguy hiểm trong trường hợp này.

Thứ hai, người bị kết án và bản án đã kết án đối với họ chưa được xóa án tích. Dấu hiệu này được xác định như trường hợp tái phạm và trường hợp thứ nhất của tái phạm nguy hiểm.

Thứ ba, người phạm tội lại phạm tội do cố ý. Theo đó, tội mới là bất kỳ tội phạm cụ thể nào, có thể là tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Dấu hiệu này chỉ đòi hỏi tội đó là tội do cố ý, không bao hàm tội phạm do vô ý. Đồng thời, tội này do người phạm tội thực hiện sau và được xử sau và lần phạm tội mới này đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm độc lập do BLHS quy định.

Trở lại trường hợp của Nguyễn Văn M, bản án đối với Nguyễn Văn M chưa được xóa án tích và cả ba lần phạm tội Nguyễn Văn M đều thực hiện với lỗi cố ý. Vấn đề đặt ra là xác định tình tiết Nguyễn Văn M đã “tái phạm”. Do vậy, sau khi phát hiện tình tiết mới, Viện kiểm sát cần kháng nghị tái thẩm bản án năm 2016 để xét xử lại vụ án đúng với sự thật khách quan.

Khi Bản án năm 2016 được tái thẩm đã bổ sung tình tiết “tái phạm” thì Viện kiểm sát sẽ kháng nghị tái thẩm Bản án 2018 để được xét xử lại theo thủ tục tái thẩm.  

Xem thêm>>>

Khi trộm đột nhập có được chống trả?

Đang chấp hành án treo lại phạm tội mới thì bị xử thế nào?

Dương Văn Hưng - TAQS khu vực 1 Quân chủng Hải Quân