Công ước của Liên hợp quốc, pháp luật hình sự của một số quốc gia về chống tham nhũng

Ngày đăng : 16:39, 04/06/2018

(Kiemsat.vn) - Bài viết nghiên cứu một số quy định Công ước của Liên hợp quốc và pháp luật hình sự của một số quốc gia về chống tham nhũng, qua đó liên hệ với việc nội luật hóa trách nhiệm hình sự hành vi của người có chức vụ, quyền hạn có số lượng tài sản lớn nhưng không giải thích được nguồn gốc minh bạch của tài sản.

Cùng với Luật phòng, chống tham nhũng, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được Quốc hội sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện, trong đó đáng chú ý là các quy định về tội phạm tham nhũng, chức vụ được mở rộng phạm vi điều chỉnh đến chủ thể ở khu vực ngoài nhà nước. 

1. Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng 

Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 01/10/20031 (Công ước) (1). Mục đích của Công ước là hình thành khuôn khổ pháp lý toàn cầu cho sự hợp tác giữa các quốc gia trong hoạt động phòng, chống tham nhũng thông qua các biện pháp phòng, chống hữu hiệu. Điều 1 của Công ước khẳng định: “Thúc đẩy và tăng cường các biện pháp nhằm đấu tranh phòng, chống tham nhũng có hiệu lực, hiệu quả hơn… Thúc đẩy, tạo điều kiện và hỗ trợ hợp tác quốc tế và trợ giúp kỹ thuật trong phòng, chống tham nhũng, bao gồm cả việc thu hồi tài sản”.

Ảnh minh họa (nguồn internet)

Công ước đặt ra nghĩa vụ cho các quốc gia thành viên phải nội luật hóa các quy định hình sự từ Điều 15 đến Điều 25 của Công ước, bao gồm: Hối lộ công chức quốc gia; hối lộ công chức nước ngoài hoặc của tổ chức quốc tế công; tham ô; biển thủ hoặc các dạng chiếm đoạt khác bởi công chức; lạm dụng ảnh hưởng để trục lợi; lạm dụng chức năng; hối lộ trong khu vực tư; biển thủ tài sản trong khu vực tư; che giấu tài sản; cản trở hoạt động tư pháp. Đối với việc nội luật hóa quy định hình sự hành vi làm giàu bất hợp pháp (Điều 20); hành vi rửa tiền và tài sản do phạm tội mà có (Điều 23), thì các quốc gia thực hiện dựa trên cơ sở phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc gia.

Trên nguyên tắc, mọi tài sản do hành vi tham nhũng mà có đều phải bị thu hồi quy định từ Điều 51 đến Điều 55 của Công ước. Theo đó, các quốc gia thành viên, trong phạm vi rộng nhất được pháp luật quốc gia cho phép, ban hành các quy định cần thiết cho phép tịch thu tất cả tài sản có nguồn gốc từ hành vi phạm tội theo quy định của Công ước, kể cả tài sản đã bị biến đổi, lẫn lộn với tài sản khác và các lợi ích, thu nhập phát sinh từ tham nhũng.

Có thể thấy, về cơ bản các hành vi liên quan đến tội phạm về chức vụ và tham nhũng đã được luật hóa trong Luật hình sự nước ta, đặc biệt là Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Trong đó, được sửa đổi, bổ sung nhiều quy định mới cả ở phần chung và phần các tội phạm, đặc biệt là quy định các tội phạm về chức vụ và tham nhũng tại Chương XXIII, bao gồm 2 mục, cụ thể:

Mục 1, các tội phạm về tham nhũng, gồm 07 điều luật quy định về các tội phạm: Tham ô tài sản (Điều 353); Nhận hối lộ (Điều 354); Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 355); Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 356); Lạm quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 357); Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 358) và Tội giả mạo trong công tác (Điều 359).

Mục 2, ngoài các tội phạm khác về chức vụ, Mục này còn quy định các tội phạm được thực hiện bằng hành vi mang tính vụ lợi, như: Đưa hối lộ (Điều 364); Môi giới hối lộ (Điều 363) và tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi (Điều 366).

Điểm đáng lưu ý của BLHS năm 2015 khi quy định về các tội phạm tham nhũng, chức vụ là đã mở rộng phạm vi chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự ở khu vực ngoài nhà nước. Ví dụ, khoản 6 Điều 353 BLHS năm 2015 quy định về tội tham ô tài sản: “Người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước mà tham ô tài sản thì bị xử lý theo quy định của Điều này”; khoản 6 Điều 354 quy định về tội nhận hối lộ: “Người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước mà nhận hối lộ thì bị xử lý theo quy định của Điều này”. Từ những quy định này cho thấy, BLHS năm 2015 đã chứa đựng yếu tố nội luật hóa khá rõ trong khuôn khổ quy định của Công ước về chống tham nhũng trong khu vực tư, cụ thể Điều 12 Công ước quy định: “Trên cơ sở phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật nước mình, mỗi quốc gia thành viên sẽ tiến hành các biện pháp để phòng ngừa tham nhũng liên quan đến khu vực tư,… khi thích hợp, ban hành những chế tài dân sự, hành chính hoặc hình sự hiệu quả tương xứng và có tính răn đe đối với những hành vi không tuân thủ các biện pháp này”.

Liên quan đến các tội phạm chức vụ và tham nhũng, vấn đề đặt ra là BLHS năm 2015 vẫn còn khoảng trống đáng kể, đó là chưa thấy có nội dung quy định và chế tài đối với hành vi của người có chức vụ, quyền hạn có số lượng tài sản lớn vượt quá mức thu nhập hợp pháp, nhưng không giải thích rõ được nguồn gốc hợp pháp của tài sản, hành vi che giấu tài sản, hoặc tài khoản ở nước ngoài.

Để nâng cao hiệu quả của hoạt động đấu tranh chống tham nhũng, thì ngoài các tội phạm về chức vụ, tham nhũng đã được quy định trong BLHS năm 2015, kèm theo đó là những chế tài về việc tịch thu, thu hồi tài sản do phạm tội mà có, thiết nghĩ BLHS tiếp tục cần phải được nghiên cứu, nội luật hóa bổ sung hành vi, mà ở đó xét đến cùng thì hệ quả của hành vi đó là sự tích tụ số lượng tài sản lớn vượt quá mức thu nhập hợp pháp của người có chức vụ, quyền hạn, nhưng không thể giải thích được nguồn gốc vì sao có số lượng tài sản đó.

Trường hợp này, Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng gọi là “làm giàu bất hợp pháp”. Điều 20 Công ước quy định: “Trên cơ sở tuân thủ Hiến pháp và các nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật nước mình, mỗi quốc gia thành viên sẽ áp dụng các biện pháp cần thiết khác nhằm quy định là tội phạm, nếu được thực hiện một cách cố ý, hành vi làm giàu bất hợp pháp, nghĩa là việc tài sản của một công chức tăng lên đáng kể so với thu nhập hợp pháp của công chức mà công chức này không giải thích được một cách hợp lý về lý do tăng đáng kể như vậy”.

2. Pháp luật hình sự của một số quốc gia quy định về tội số lượng tài sản lớn có nguồn gốc không minh bạch

Tham khảo pháp luật hình sự của một số quốc gia trên thế giới cho thấy, từ rất sớm họ đã quy định về tội danh số lượng tài sản lớn có nguồn gốc không minh bạch, đó là Ấn Độ, Pa-ki-xtan. Ngay từ năm 1947, Luật phòng chống tham nhũng của Ấn Độ, Pa-ki-xtan đã quy định: “Công chức, viên chức có tài sản lớn hoặc chi tiêu lớn mà không thể giải thích được nguồn gốc hợp pháp thì cấu thành tội phạm hình sự”.

Đến những năm 70 của thế kỷ 20, Ấn Độ, Pa-ki-xtan, Anh, Singapore, Đặc khu Hồng kông Trung Quốc đều quy định về loại tội phạm tương tự, xem nó như một một liều thuốc mạnh chống lại nạn tham nhũng. Đặc biệt là Singapore, Đặc khu Hồng kông Trung Quốc đã vận dụng loại vũ khí pháp luật này, đồng thời tiếp tục tăng cường năng lực cơ cấu, bộ máy chống tham nhũng, trừng trị các quan chức tham nhũng thu được hiệu quả khá cao (2).

Ở Trung Quốc, năm 1988, Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc đã ban hành Văn bản: “Quy định bổ sung liên quan đến việc trừng trị các tội phạm tham ô, hối lộ”, trong đó quy định: “Tài sản hoặc chi tiêu của công chức, viên chức nhà nước vượt quá mức thu nhập hợp pháp, mức chênh lệnh với số lượng lớn, thì phải chứng minh làm rõ nguồn gốc tài sản hoặc việc chi tiêu đó, người có tài sản hoặc chi tiêu đó mà không giải thích được nguồn gốc hợp pháp số lượng tài sản hoặc chi tiêu có mức chênh lệch đó thì bị luận là bất hợp pháp, bị phạt tù đến 5 năm hoặc phạt giam ngắn hạn, và bị tịch thu số lượng tài sản bất hợp pháp”.

Đến năm 1997, Trung Quốc tiến hành sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự, trong đó đã pháp điển hóa quy định của văn bản nêu trên thành tội danh cụ thể, đó là “Tội số lượng tài sản lớn có nguồn gốc không minh bạch” vào Chương 8 Bộ luật Hình sự quy định về các tội phạm tham ô, hối lộ. Theo đó, tội danh này có nội dung quy định như sau: “Tài sản hoặc chi tiêu của công chức, viên chức nhà nước vượt quá mức thu nhập hợp pháp, mức chênh lệnh với số lượng lớn, thì phải chứng minh làm rõ nguồn gốc tài sản hoặc việc chi tiêu đó, người có tài sản hoặc chi tiêu đó mà không giải thích được nguồn gốc hợp pháp số lượng tài sản hoặc chi tiêu chênh lệch đó thì bị luận là bất hợp pháp, có thể bị phạt tù đến 5 năm hoặc phạt giam ngắn hạn, và bị tịch thu số lượng tài sản bất hợp pháp sung công quỹ”.

Năm 2012, Trung Quốc tiến hành sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự, trong đó quy định tại Điều 359 hai tội danh, đó là: Tội số lượng tài sản lớn có nguồn gốc không minh bạch và Tội che giấu tài khoản ở nước ngoài, cụ thể:

Tội số lượng tài sản lớn có nguồn gốc không minh bạch, quy định: “Công chức, viên chức nhà nước có tài sản hoặc việc chi tiêu vượt quá thu nhập hợp pháp, mức chênh lệch với số lượng lớn, có thể bị yêu cầu giải thích rõ về nguồn gốc. Nếu không giải thích được nguồn gốc hợp pháp của tài sản và việc chi tiêu đó, thì phần chênh lệch sẽ bị luận là thu nhập bất hợp pháp và sẽ bị phạt tù đến 05 năm, hoặc bị phạt giam ngắn hạn; phần chênh lệch sẽ bị truy thu (khoản 1).

Tội che giấu tài khoản ở nước ngoài quy định: “Công chức, viên chức nhà nước có tiền gửi ở nước ngoài phải khai báo theo quy định của nhà nước. Nếu số lượng tương đối lớn mà che giấu không khai báo sẽ bị phạt tù đến 02 năm hoặc phạt giam ngắn hạn; nếu có tình tiết giảm nhẹ, thì do cơ quan sở tại hoặc cơ quan chủ quản cấp trên xem xét để xử phạt hành chính” (khoản 2).

3. Xu hướng và giải pháp

Quốc hội khóa XIV đang nghiên cứu và cho ý kiến vào dự thảo Luật phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) thay thế Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005, với mục tiêu nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả của Luật phòng, chống tham nhũng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được Quốc hội sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện, trong đó đáng chú ý là cả dự thảo Luật phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) và các quy định về tội phạm về tham nhũng, chức vụ trong BLHS năm 2015 đã mở rộng phạm vi điều chỉnh đến chủ thể có chức vụ, quyền hạn ở khu vực ngoài nhà nước. Từ đó, có thể thấy rằng, các quy định của pháp luật nước ta về phòng, chống tham nhũng đã và đang thực hiện nghiêm túc các cam kết của Công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Nghiên cứu một số quy định trong Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng, trong đó có quy định về hành vi làm giàu bất hợp pháp (Điều 20), xét về bản chất đó là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn có số lượng tài sản hoặc chi tiêu lớn, nhưng không giải thích được nguồn gốc minh bạch của tài sản. Theo kinh nghiệm lập pháp của một số quốc gia trên thế giới, hành vi này đã được họ luật hóa trong quy định của Luật hình sự, hoặc trong các luật chuyên ngành, đồng thời dẫn chiếu đến việc xem xét trách nhiệm hình sự theo quy định của Luật hình sự về hành vi của người có chức vụ, quyền hạn mà có tài sản hoặc chi tiêu vượt quá mức thu nhập hợp pháp mà không giải thích được nguồn gốc minh bạch của tài sản.

Để đấu tranh chống tội phạm tham nhũng ở nước ta được hiệu quả, thu hút sự tham gia đấu tranh đông đảo của các lực lượng trong xã hội; tài sản do phạm tội, phái sinh từ tội phạm tham nhũng, hoặc phái sinh từ hành vi tham nhũng phải được thu về cho Nhà nước, cơ quan, tổ chức, hoặc đơn vị có quyền và lợi ích hợp pháp. Bên cạnh đó, trong bối cảnh nước ta đang ngày càng khẳng định vai trò và vị thế của mình trên các bình diện của môi trường quốc tế, thì việc nghiên cứu, xem xét để luật hóa vấn đề trách nhiệm hình sự đối với một số hành vi, trong đó có hành vi của người có chức vụ, quyền hạn có số lượng tài sản lớn, vượt quá nhiều lần với mức thu nhập hợp pháp của họ, mà không chứng minh được nguồn gốc minh bạch của tài sản là một yêu cầu khách quan cần thiết. Đó không chỉ là vấn đề đang được nhân dân cả nước và xã hội quan tâm, mà cũng đang là xu hướng quốc tế của các quốc gia trên thế giới trong việc kiểm soát, phòng và chống tham nhũng./.

(Trích bài: “Công ước của Liên hợp quốc, pháp luật hình sự của một số quốc gia về chống tham nhũng và vấn đề nội luật hóa hành vi người có tài sản lớn nguồn gốc không minh bạch” của tác giả Tiến sĩ Bùi Văn Hưng, Viện kiểm sát quân sự Trung ương, TCKS số 5/2018).

1. Ngày 10/12/2003, Việt Nam đã ký Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng; ngày 18/9/2009, Công ước này có hiệu lực đối với Việt Nam.

2. Nghê Trạch Nhân (Chủ biên), “Phân tích vấn đề khó khăn trong nghiệp vụ kiểm sát tội phạm tham ô, hối lộ”, Nxb. Kiểm sát Trung Quốc, 2008, tr.323.

 

Xem thêm>>>

Đấu tranh phòng chống tham nhũng đang là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta

12 hành vi vi phạm các quy định trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí sẽ bị khai trừ khỏi Đảng

 

TCKS số 5/2018