Vướng mắc trong xử lý tội phạm liên quan đến hoạt động xuất nhập cảnh

Ngày đăng : 09:43, 05/11/2025

(Kiemsat.vn) - Bài viết tập trung phân tích những khó khăn, vướng mắc liên quan đến việc áp dụng quy định của pháp luật khi xử lý tội phạm liên quan đến hoạt động xuất nhập cảnh quy định tại các điều 348, 349 Bộ luật Hình sự năm 2015 và đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định này.

1. Một số khó khăn, vướng mắc

Thứ nhất, vướng mắc trong việc xác định hành vi khách quan của Tội tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép quy định tại Điều 348 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS năm 2015) và Tội tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép quy định tại Điều 349 BLHS năm 2015. Dưới góc độ lý luận, hai hành vi phạm tội trên được xác định là độc lập và mỗi hành vi có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về những tội danh khác nhau tương ứng. Cụ thể, hành vi tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh trái phép bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 348 về Tội tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh trái phép, trong khi đó, hành vi tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài theo Điều 349 BLHS năm 2015. Tuy nhiên, dưới góc độ nghĩa của từ, trên cơ sở xác định chính xác bản chất của hành vi phạm tội thì hành vi xuất cảnh trái phép và hành vi trốn đi nước ngoài đều có nghĩa là ra khỏi lãnh thổ biên giới quốc gia một cách bất hợp pháp. Điều này đã gây ra những khó khăn cho quá trình giải quyết của cơ quan tiến hành tố tụng khi định tội.

Một số nhà nghiên cứu cho rằng, sự khác nhau giữa hai tội phạm nói trên có thể căn cứ vào nhiều yếu tố như địa điểm, cách thức thực hiện hành vi hoặc động cơ, mục đích của hành vi phạm tội. Có quan điểm cho rằng, đối với Tội tổ chức, môi giới cho người khác “xuất cảnh trái phép”, hành vi khách quan của tội phạm được thể hiện thông qua việc đối tượng đã vi phạm các quy định của Nhà nước liên quan đến hoạt động xuất nhập cảnh, cụ thể là có hành vi “ra khỏi lãnh thổ của Việt Nam qua cửa khẩu của Việt Nam khi không đủ điều kiện được pháp luật quy định”, vi phạm khoản 6 Điều 3 Luật nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014 sửa đổi, bổ sung năm 2019 hoặc khoản 1 Điều 2 Luật xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam năm 2019 sửa đổi, bổ sung năm 2023. Như vậy, nếu người phạm tội có hành vi trốn ra nước ngoài trái phép bằng cách làm giả giấy tờ, khai báo thông tin không trung thực… và hành vi được thực hiện tại các cửa khẩu của Việt Nam thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh trái phép quy định tại Điều 348 BLHS năm 2015. Ngược lại, nếu hành vi của đối tượng được thực hiện một cách lén lút nhằm trốn tránh việc truy bắt của lực lượng chức năng, việc trốn ra nước ngoài thông qua hệ thống đường mòn, lối mở tại khu vực tiếp giáp biên giới của Việt Nam và các quốc gia khác thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 349 BLHS năm 2015.

Tại tiểu mục 2.1 Công văn số 1557/VKSTC-V1 ngày 20/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn nghiệp vụ áp dụng các điều 347, 348 và 349 BLHS, để phân biệt hành vi “tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh trái phép” với hành vi “tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài”, cơ quan tố tụng sẽ dựa vào động cơ, mục đích của người phạm tội. Tức là, nếu người phạm tội vì động cơ vụ lợi mà tổ chức, môi giới cho người khác từ Việt Nam ra nước ngoài chỉ với mục đích đưa người khác qua biên giới thì hành vi cấu thành Tội tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh trái phép (Điều 348 BLHS năm 2015). Ngược lại, nếu người phạm tội có hành vi tổ chức, môi giới cho người khác ra khỏi lãnh thổ Việt Nam với mục đích để người đó trốn ra nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép (để trốn tránh pháp luật, trốn nợ, lao động bất hợp pháp…) thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép (Điều 349 BLHS năm 2015).

Mặc dù có nhiều quan điểm để đánh giá bản chất của hành vi phạm tội và làm cơ sở cho việc xử lý tội phạm, tuy nhiên, những quan điểm trên mang tính chủ quan của chủ thể áp dụng pháp luật, hoặc chỉ là văn bản hướng dẫn đơn ngành, không có giá trị bắt buộc đối với tất cả các chủ thể. Điều này dễ gây ra những bất đồng về quan điểm khi xử lý hành vi phạm tội giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, các địa phương và làm ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm trong thực tiễn.

Thứ hai, trong quá trình xử lý tội phạm liên quan đến hoạt động xuất nhập cảnh, việc xác định ranh giới giữa xử lý vi phạm hành chính và vi phạm hình sự còn gặp nhiều khó khăn. Cụ thể, theo điểm đ khoản 7 Điều 18 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình thì hành vi “tổ chức, môi giới, giúp sức, xúi giục, chứa chấp, che giấu, tạo điều kiện cho người khác xuất cảnh, ở lại nước ngoài, nhập cảnh, ở lại Việt Nam hoặc qua lại biên giới quốc gia trái phép” có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng, trong khi đó, khoản 1 Điều 348 và khoản 1 Điều 349 BLHS năm 2015 quy định, chỉ cần có hành vi tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép hoặc hành vi tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Như vậy, căn cứ vào các quy định trên, cùng một hành vi có thể bị xử lý hình sự hoặc xử lý vi phạm hành chính hoặc xử lý đồng thời bằng cả hai biện pháp. Điều này không phù hợp với nguyên tắc xử lý vi phạm pháp luật, gây ra bất cập trong việc xử lý hành vi phạm tội liên quan đến hoạt động xuất nhập cảnh trong thực tiễn.

Thứ ba, việc áp dụng chưa thống nhất tình tiết định khung tăng nặng “phạm tội từ 02 lần trở lên” tại điểm b khoản 2 Điều 348 và điểm b khoản 2 Điều 349 BLHS năm 2015. Ví dụ: Trường hợp bị cáo hai lần thực hiện hành vi tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép, lần thứ nhất 05 người, lần thứ hai 06 người thì truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm b, c khoản 2 Điều 348 BLHS năm 2015 với các tình tiết định khung “phạm tội 02 lần trở lên” và “đối với 05 người đến 10 người” hay truy cứu trách nhiệm hình sự bị cáo theo điểm a khoản 3 Điều 348 BLHS năm 2015 với tình tiết định khung “đối với 11 người trở lên”.

Trong một vụ án xảy ra trên địa bàn tỉnh X có nội dung như sau: Đối tượng A có hành vi tổ chức cho 08 người nước ngoài nhập cảnh trái phép vào Việt Nam. Để thực hiện tội phạm, A thuê 02 người (làm nghề xe ôm) đến mốc biên giới, tập trung tại một địa điểm với mục đích vận chuyển 08 người nước ngoài vào lãnh thổ Việt Nam (mỗi xe chở 02 người, chia làm hai lần, giá thuê chở cho mỗi người là 200.000 đồng). Hành vi của A sau đó bị phát hiện, bắt giữ. Quá trình giải quyết vụ án có các quan điểm khác nhau, cụ thể:

Quan điểm thứ nhất cho rằng, các đối tượng “lái xe ôm” đã được thuê không tham gia với vai trò đồng phạm trong vụ án trên mà chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự với 04 đối tượng được mình vận chuyển một cách độc lập, hành vi của họ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 348 BLHS năm 2015.

Quan điểm thứ hai cho rằng, các đối tượng “lái xe ôm” trong vụ án đã có hành vi vận chuyển người nhập cảnh trái phép vào Việt Nam, cụ thể việc vận chuyển được chia làm 02 lần, mỗi lần 02 người, như vậy, 02 đối tượng đã thực hiện tổng cộng 04 lượt vận chuyển với 08 người được nhập cảnh trái phép vào Việt Nam. Các đối tượng được thuê và trả công độc lập nên không phải chịu trách nhiệm chung với những người khác. Tuy nhiên, quá trình thực hiện hành vi đã tham gia vận chuyển tổng cộng 02 lần, mỗi lần 02 người, do vậy, đủ cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 348 Bộ luật hình sự với tình tiết “phạm tội 02 lần trở lên”.

Quan điểm thứ ba cho rằng, 02 đối tượng “lái xe ôm” được thuê đã tham gia với vai trò đồng phạm trong vụ án và phải chịu trách nhiệm hình sự chung cho hành vi đưa 08 người nước ngoài vào Việt Nam trái phép, hành vi thỏa mãn yếu tố cấu thành của tội phạm tại điểm c khoản 2 Điều 348 BLHS năm 2015.

Tác giả đồng ý với quan điểm thứ ba bởi lẽ, giữa những người lái xe ôm (được A thuê) đã có sự bàn bạc, trao đổi khi thực hiện hành vi, các đối tượng biết và buộc phải biết hành vi của mình có mối liên hệ với các đối tượng còn lại và cùng gây ra hậu quả (đưa 12 người nước ngoài nhập cảnh vào lãnh thổ Việt Nam một cách trái phép). Thêm vào đó, việc các đối tượng thực hiện mỗi người 02 lượt vận chuyển nằm chung trong một chuỗi hành vi, gây ra một hậu quả chung thống nhất, trong cùng một vụ án. Do vậy, không thể áp dụng tình tiết “phạm tội 02 lần trở lên” (điểm b khoản 2 Điều 348 BLHS năm 2015) mà chỉ có thể áp dụng tình tiết “đối với từ 05 người đến 10 người” (điểm c khoản 2 Điều 348 BLHS năm 2015) để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các đối tượng trên.

Thứ tư, như đã phân tích ở trên, trong mối quan hệ so sánh giữa các yếu tố cấu thành cơ bản của tội phạm quy định tại Điều 348 và Điều 349 BLHS năm 2015 thấy rằng, sự khác nhau giữa hai tội phạm nằm ở động cơ phạm tội của chủ thể. Khoản 1 Điều 348 BLHS năm 2015 quy định: “Người nào vì vụ lợi mà tổ chức hoặc môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép thì bị phạt…”, trong khi đó, khoản 1 Điều 349 quy định: “Người nào tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép thì bị phạt…”.

Yếu tố “vụ lợi” quy định tại Điều 348 BLHS năm 2015 được giải thích theo tinh thần của Công văn số 1557/VKSTC-V1 ngày 20/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao là “lợi ích vật chất hoặc phi vật chất không chính đáng cho mình hoặc cho cơ quan, tổ chức, cá nhân khác”, như vậy, nếu người phạm tội thực hiện hành vi để có được những lợi ích (vật chất hoặc phi vật chất) sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 348 BLHS năm 2015. Yếu tố “vụ lợi” được quy định trong cấu thành cơ bản của tội phạm này là cơ sở để việc áp dụng tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm đ khoản 2 và điểm b khoản 3 của điều luật được dễ dàng hơn. Trong khi đó, cấu thành cơ bản của tội phạm quy định tại Điều 349 BLHS năm 2015, mặc dù không quy định động cơ vụ lợi là yếu tố bắt buộc nhưng khoản 2 và khoản 3 của điều luật đã xác định “thu lợi bất chính từ…” là tình tiết định khung tăng nặng. Như vậy, có hai vấn đề cần phải được giải thích, một là, chứng minh yếu tố có hay không có vụ lợi; hai là, tình tiết “thu lợi bất chính…” trong quy định của 02 tội phạm trên được hiểu thế nào, có bao gồm hay được trừ đi những chi phí hợp lý khác mà người phạm tội đã bỏ ra trong quá trình thực hiện hành vi (mua vé máy bay, chi phí ăn uống…)

Ví dụ: A biết rõ B (vì vụ lợi) đang tổ chức cho 02 người khác nhập cảnh trái phép vào Việt Nam. Khi được B nhờ, A đã giúp B đưa đón các đối tượng này qua khu vực cửa khẩu biên giới và hành vi đã được thực hiện trót lọt. Tuy nhiên, vì là chỗ thân quen với B nên A chỉ giúp mà không nhận lợi ích gì từ B. Hành vi của A, B sau đó bị phát hiện và bắt giữ. Cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình xử lý vụ án trên đã có những quan điểm khác nhau.

Quan điểm thứ nhất cho rằng, hành vi của A đủ yếu tố cấu thành tội phạm nếu chứng minh được B có yếu tố vụ lợi và A cũng biết việc vụ lợi của B.

Quan điểm thứ hai cho rằng, phải xem xét xử lý A với vai trò đồng phạm nếu chứng minh được B có yếu tố vụ lợi mà không cần thiết phải chứng minh A có biết về yếu tố vụ lợi của B hay không.

Quan điểm thứ ba cho rằng, hành vi của A không cấu thành tội phạm vì A không có yếu tố vụ lợi.

Theo tác giả, để quá trình định tội đảm bảo có căn cứ và chính xác thì cần đánh giá đúng bản chất của hành vi. Trong vụ án, A đã có hành vi giúp B đưa đón 02 người nhập cảnh trái phép qua cửa khẩu biên giới để vào lãnh thổ Việt Nam, hành vi này của A được xem là mắt xích quan trọng giúp tội phạm được thực hiện và đã gây ra hậu quả trên thực tế. Mặc dù khi thực hiện hành vi A không nhận được lợi ích từ B nhưng hành vi mà A thực hiện đã cho thấy mức độ nguy hiểm đáng kể cho xã hội, cho nên, trong trường hợp này, việc A biết hay không biết về yếu tố vụ lợi của B không phải là căn cứ quan trọng để xác định A có phạm tội hay không.

Ngoài ra, việc xử lý tội phạm liên quan đến hoạt động xuất nhập cảnh hiện nay theo quy định của BLHS năm 2015 chỉ áp dụng đối với cá nhân mà không xử lý đối với trường hợp chủ thể phạm tội là pháp nhân. Thực tiễn cho thấy, có nhiều trường hợp các đối tượng sử dụng danh nghĩa công ty để tổ chức, môi giới cho người khác nhập cảnh, xuất cảnh trái phép; thậm chí có trường hợp còn thành lập các pháp nhân thương mại chỉ để phục vụ cho hoạt động tổ chức cho người khác nhập cảnh, xuất cảnh, ở lại Việt Nam trái phép, ở lại nước ngoài trái phép. Tuy nhiên, với quy định hiện tại thì vấn đề trách nhiệm hình sự liên quan đến hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện không được đặt ra, đây cũng là lý do khiến quá trình xử lý tội phạm liên quan đến hoạt động xuất nhập cảnh trong thời gian qua chưa được giải quyết triệt để, gây ảnh hưởng chung đến quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm trong thực tế.

2. Một số kiến nghị

Một là, để đảm bảo cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi tổ chức, môi giới cho người khác “xuất cảnh trái phép” và hành vi tổ chức, môi giới cho người khác “trốn đi nước ngoài” đảm bảo chính xác, không làm xuất hiện tình trạng xử lý khác nhau giữa các địa phương, gây mâu thuẫn trong quá trình áp dụng pháp luật thì liên ngành tư pháp trung ương cần sớm có văn bản hướng dẫn cụ thể, thống nhất. Ngày 12/6/2024, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 04/2024/NQ-HĐTP về hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS về truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi liên quan đến khai thác, mua bán, vận chuyển trái phép thủy sản, trong đó hướng dẫn cụ thể để xử lý hành vi xuất cảnh, nhập cảnh quy định tại các điều 347, 348 và 349 nhằm mục đích khai thác thủy hải sản trái phép. Tuy nhiên, văn bản này chỉ hướng dẫn riêng cho nhóm tội phạm cụ thể, không có giá trị bắt buộc đối với các trường hợp khác.

Hai là, với tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép và hành vi tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép, cần nghiên cứu bãi bỏ quy định về việc xử lý vi phạm hành chính đối với các hành vi trên, chỉ giữ lại quy định về truy cứu trách nhiệm hình sự khi có hành vi phạm tội xảy ra để đảm bảo tính thống nhất trong quá trình xử lý vi phạm pháp luật, thực hiện nghiêm nguyên tắc “một hành vi vi phạm pháp luật chỉ bị xử lý một lần”, không gây bất lợi cho chủ thể vi phạm.

Ba là, cần có hướng dẫn cụ thể về tình tiết “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 348 và điểm b khoản 2 Điều 349 BLHS theo hướng xác định, phạm tội tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép; hoặc tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép 02 lần trở lên là trường hợp chủ thể thực hiện hành vi từ 02 lần trở lên, mỗi lần thực hiện hành vi đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm, chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Đối với tội phạm liên quan đến hoạt động xuất nhập cảnh theo Điều 348, Điều 349 BLHS năm 2015, một lần phạm tội là khi chủ thể phạm tội thực hiện hành vi trong cùng một thời gian, tại một khu vực, địa điểm cụ thể đã tổ chức, môi giới cho một người/nhiều người xuất cảnh, nhập cảnh trái phép, ở lại nước ngoài trái phép… Trường hợp cùng thời gian, khu vực, địa điểm mà người phạm tội tổ chức, môi giới cho nhiều người xuất cảnh, nhập cảnh trái phép,… nhưng chia thành nhiều lần, tách ra thành từng nhóm nhỏ để trốn tránh sự phát hiện từ cơ quan chức năng thì vẫn xem là 01 lần phạm tội mà không áp dụng tình tiết “phạm tội 02 lần trở lên” để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.

Bốn là, yếu tố “vụ lợi” trong cấu thành cơ bản của Tội tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép (Điều 348 BLHS năm 2015) cần được hướng dẫn để làm cơ sở phân biệt với trường hợp không có yếu tố vụ lợi quy định tại Điều 349 BLHS năm 2015 về Tội tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép. Bên cạnh đó, cần giải thích rõ tình tiết “thu lợi bất chính” theo hướng xác định đó là những lợi ích mà người phạm tội có được từ việc thực hiện hành vi phạm tội sau khi đã trừ đi những chi phí hợp lý khác mà người phạm tội bỏ ra để phục vụ cho những lợi ích cơ bản của đối tượng được tổ chức, được môi giới như chi phí ăn ở, đi lại, mua vé máy bay…

Ngoài ra, để bảo đảm việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi phạm tội liên quan đến hoạt động xuất nhập cảnh được toàn diện, cần nghiên cứu, bổ sung quy định pháp nhân thương mại cũng là chủ thể của tội phạm quy định tại các điều 348, 349 BLHS năm 2015 Việc bổ sung chủ thể pháp nhân thương mại trong cấu thành của các tội phạm liên quan đến hoạt động xuất nhập cảnh sẽ tạo ra sự tương thích trong quá trình áp dụng pháp luật giữa Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới, giúp cho việc xử lý được thuận tiện và đảm bảo công bằng.

Nguyễn Thị Thùy Liên

------------------------------------------------------------------------------

Tài liệu tham khảo:

1. Nghị quyết số 04/2024/NQ-HĐTP ngày 12/6/2024 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự về truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi liên quan đến khai thác, mua bán, vận chuyển trái phép thủy sản.

2. Công văn số 1557VKSTC-V1 ngày 20/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng các điều 347, 348 và 349 BLHS.

3. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tài liệu Hội nghị tập huấn kỹ năng và trao đổi kinh nghiệm trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết các vụ án liên quan đến hoạt động xuất, nhập cảnh và vũ khí, vật liệu nổ, Hà Nội, 2023.

Theo Tạp chí Kiểm sát in số 03/2025