Về các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính trong Bộ luật Hình sự năm 2015
Ngày đăng : 14:13, 22/09/2025
1. Dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính trong Bộ luật Hình sự năm 2015
Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS năm 2015) quy định các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính tại Chương XXII với tổng số 22 tội danh (từ Điều 330 đến Điều 351).
1.1. Khách thể
Lĩnh vực trật tự quản lý hành chính rất rộng, đa dạng và chính sách hình sự đã phân định rõ lĩnh vực này thành 22 cấu thành tội phạm trong BLHS năm 2015 để phân biệt với các hành vi không phải là tội phạm. Các quan hệ xã hội trong lĩnh vực trật tự quản lý hành chính là khách thể của các tội phạm này còn được chia ra thành: Trật tự quản lý hành chính trong lĩnh vực hoạt động bình thường của người thi hành công vụ, của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước, các quy định của Nhà nước về thực hiện các quyền; trật tự quản lý hành chính trong việc thực hiện nghĩa vụ quân sự và việc thực hiện nghĩa vụ quân sự của công dân; chế độ bảo vệ bí mật nhà nước; trật tự quản lý hành chính trong lĩnh vực quản lý chức vụ, cấp bậc và uy tín của cán bộ; trật tự quản lý hành chính thuộc lĩnh vực quản lý, sử dụng các giấy chứng nhận, tài liệu của cơ quan, tổ chức; trật tự quản lý hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà ở; lĩnh vực xuất bản và phát hành sách, báo, đĩa âm thanh, băng âm thanh, đĩa hình hoặc các ấn phẩm khác; trật tự quản lý hành chính trong lĩnh vực bảo vệ, quản lý và sử dụng các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh; chế độ quản lý nhà nước về khu vực biên giới quốc gia; trật tự quản lý hành chính trong lĩnh vực xuất nhập cảnh; trật tự quản lý hành chính trong quan hệ đối nội, đối ngoại và khách thể đặc biệt là quốc thể.
Đối tượng của tội phạm cụ thể xâm phạm trật tự quản lý hành chính có thể là con người (Tội chống người thi hành công vụ); là chính sách về nghĩa vụ quân sự (Tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự, Tội không chấp hành lệnh gọi quân nhân dự bị nhập ngũ, Tội làm trái các quy định về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự, Tội cản trở việc thực hiện nghĩa vụ quân sự); là bí mật nhà nước (tin tức về vụ việc, tài liệu, địa điểm, vật, lời nói có nội dung quan trọng thuộc các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế, khoa học, công nghệ hoặc các lĩnh vực khác mà Nhà nước chưa công bố hoặc không công bố như Tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước, Tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy vật hoặc tài liệu bí mật nhà nước và Tội vô ý làm lộ bí mật nhà nước, Tội làm mất vật, tài liệu bí mật nhà nước); là hộ chiếu, thị thực, hộ khẩu, hộ tịch hoặc các loại giấy chứng nhận, các tài liệu của cơ quan, tổ chức (Tội sửa chữa và sử dụng giấy chứng nhận, các tài liệu của cơ quan, tổ chức, Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức;...).
1.2. Mặt khách quan
Hành vi phạm tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính về cơ bản được thể hiện dưới dạng hành động - có nghĩa là bằng việc thực hiện hành vi cụ thể, người phạm tội đã tích cực thực hiện một việc làm trái pháp luật nào đó (như chống người thi hành công vụ, làm lộ bí mật nhà nước...). Ngoài ra, hành vi phạm tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính còn có thể được thể hiện dưới dạng không hành động - tức là không làm một việc mà pháp luật bắt phải làm (như không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ).
Trong từng tội phạm xâm phạm trật tự quản lý hành chính cụ thể, biểu hiện của hành vi khách quan cũng khác nhau. Chẳng hạn, dấu hiệu “đã bị xử lý hành chính về hành vi đó mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về tội này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” là dấu hiệu bắt buộc của nhiều cấu thành tội phạm như: Tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự; Tội sửa chữa và sử dụng giấy chứng nhận, các tài liệu của cơ quan, tổ chức; Tội vi phạm các quy định về quản lý nhà ở; Tội vi phạm các quy định về bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử - văn hóa, danh lam, thắng cảnh gây hậu quả nghiêm trọng; Tội vi phạm quy chế về khu vực biên giới;...
Ngoài ra, đa số các cấu thành tội phạm trong các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính không phản ánh dấu hiệu hậu quả trong mặt khách quan của tội phạm. Chỉ 01/22 điều luật trong Chương này có “hậu quả nghiêm trọng” là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm (Tội vi phạm các quy định về bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử - văn hóa, danh lam, thắng cảnh gây hậu quả nghiêm trọng).
Ngoài những nội dung biểu hiện của mặt khách quan đã được trình bày ở trên, mặt khách quan của các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính còn có những dấu hiệu khác như: Công cụ, phương tiện phạm tội, phương pháp, thủ đoạn phạm tội, địa điểm, thời gian phạm tội.
Một số phương pháp, thủ đoạn phạm tội như “phạm tội có tổ chức”; “lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội”; “phạm tội 02 lần trở lên”, “có tính chất chuyên nghiệp” được coi là các tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự (TNHS) của một số tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính (ví dụ: Tội chống người thi hành công vụ, Tội cản trở việc thực hiện nghĩa vụ quân sự...).
1.3. Chủ thể
Một số tội phạm xâm phạm trật tự quản lý hành chính có chủ thể đặc biệt, đó là: Tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự; Tội không chấp hành lệnh gọi quân nhân dự bị nhập ngũ; Tội làm trái các quy định về thực hiện nghĩa vụ quân sự; Tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; Tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy vật hoặc tài liệu bí mật nhà nước; Tội vô ý làm lộ bí mật nhà nước; Tội làm mất vật, tài liệu bí mật nhà nước.
Hầu hết các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý hành chính là tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, nên chủ thể của các tội này không thể là người chưa đủ 16 tuổi. Đối với một số tội là tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng như Tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; Tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước (khoản 2 và khoản 3 Điều 337 BLHS năm 2015); Tội tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép (khoản 2 và khoản 3 Điều 348 BLHS năm 2015); Tội tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép (khoản 2 và khoản 3 Điều 349 BLHS năm 2015) và Tội cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép (khoản 2 và khoản 3 Điều 350 BLHS năm 2015), thì khoản 2 Điều 12 BLHS năm 2015 không quy định người dưới 16 tuổi phải chịu TNHS; do vậy, chủ thể của các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính phải là người từ đủ 16 tuổi.
1.4. Mặt chủ quan
Đa số các tội trong nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính là lỗi cố ý, trừ Tội vô ý làm lộ bí mật nhà nước, Tội làm mất tài liệu bí mật nhà nước. Mặc dù động cơ, mục đích nói chung không phải là dấu hiệu bắt buộc của các tội phạm này, nhưng vẫn cần đặt ra khi giải quyết vấn đề TNHS - cụ thể là cân nhắc trong đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm.
Một số tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính được thực hiện với động cơ vụ lợi, tư lợi hoặc vì động cơ cá nhân khác (để thực hiện hành vi trái pháp luật khác) được quy định trong cấu thành cơ bản của tội phạm hoặc dấu hiệu định khung tăng nặng như: Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; Tội làm trái quy định về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự.
2. Một số hạn chế, bất cập trong quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính
Thực tiễn cho thấy, một số quy định của BLHS năm 2015 về các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính vẫn còn hạn chế, bất cập dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất. Cụ thể:
- Tội chống người thi hành công vụ chưa quy định tình tiết định khung “gây thương tích cho người thi hành công vụ”, dẫn đến bất cập như người có hành vi dùng vũ lực đối với người thi hành công vụ chỉ bị truy cứu TNHS về Tội chống người thi hành công vụ khi chưa gây ra thương tích (có tỉ lệ thương tật) hoặc chưa gây ra chết người. Nếu người có hành vi dùng vũ lực đối với người thi hành công vụ mà gây thương tích cho người thi hành công vụ thì bị truy cứu TNHS về Tội cố ý gây thương tích quy định tại khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015. Tuy nhiên, nếu nạn nhân không có đơn yêu cầu khởi tố và tỉ lệ thương tích của họ dưới 11% (trường hợp vụ án khởi tố theo yêu cầu của người bị hại) thì người phạm tội vẫn bị truy cứu TNHS về Tội chống người thi hành công vụ và chịu TNHS cùng một khung hình phạt với trường hợp chưa gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người thi hành công vụ. Lẽ ra người phạm tội chống người thi hành công vụ mà gây thương tích cho nạn nhân phải bị phạt nặng hơn người chưa gây ra thương tích cho nạn nhân.
- Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân không có dấu “,” giữa cụm từ “tự do dân chủ”, mà “tự do” và “dân chủ” là hai khái niệm khác nhau nên quy định này dễ gây hiểu nhầm “tự do dân chủ” là một khái niệm. Đồng thời, chưa phân hóa tối đa TNHS trong trường hợp “phạm tội gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” tại khoản 2 Điều luật này.
- Điều 337 BLHS năm 2015 liệt kê đối tượng tác động là “tài liệu bí mật”, “vật” không bao hàm hết khái niệm bí mật nhà nước, vì theo Luật bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018 thì tài liệu chỉ là một dạng bí mật nhà nước (ngoài tài liệu còn có vật, địa điểm, thời gian, lời nói;…). Ngoài ra, việc quy định hành vi cố ý làm lộ bí mật nhà nước, chiếm đoạt, mua bán bí mật nhà nước trong cùng một điều luật khi các hành vi này có mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau sẽ không bảo đảm tính công bằng khi truy cứu TNHS.
- Theo Điều 341 BLHS năm 2015 thì đối tượng tác động quy định ở tên điều luật là “con dấu”, “tài liệu”, nhưng nội dung tại khoản 1 của Điều luật này có đối tượng tác động bao gồm “giấy tờ khác”. Như vậy, đối tượng tác động quy định ở tên điều luật không bao quát hết nội dung đối tượng tác động trong điều luật.
Bên cạnh đó, hành vi sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức để thực hiện tội phạm khác sẽ cấu thành hai tội độc lập (ví dụ sử dụng con dấu giả để lừa đảo sẽ cấu thành hai tội là Tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức và Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản). Tuy nhiên, Điều 341 BLHS năm 2015 lại quy định đây là tình tiết định khung tại điểm d khoản 2 và điểm b khoản 3.
- Vẫn còn có trường hợp hành vi có tính chất, mức độ khác nhau nhưng lại được áp dụng cùng một chính sách xử lý như nhau vì được quy định trong cùng một điều luật. Điều này đã gây khó khăn cho việc định tội danh và quyết định hình phạt cũng như xác định các tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Ví dụ: Tội vi phạm các quy định về quản lý nhà ở (Điều 343 BLHS năm 2015) gồm hai hành vi là chiếm dụng chỗ ở và xây dựng nhà trái phép là hai tội phạm độc lập có khách thể khác nhau nhưng lại quy định trong một điều luật là không hợp lý, vì hành vi chiếm dụng chỗ ở có khách thể là quyền sử dụng, sở hữu chỗ ở của công dân, cơ quan, tổ chức; còn hành vi xây dựng nhà trái phép có khách thể là quy định của nhà nước về trật tự xây dựng.
- Quy định tình tiết định khung ở một số tội chưa thật sự hợp lý, chưa phân hóa rõ TNHS. Tội tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép (Điều 348); Tội tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép (Điều 349) quy định tình tiết định khung tăng nặng “làm chết người” tại điểm c khoản 3. Tuy nhiên, nếu trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội mà chưa đến mức làm chết người, chỉ dừng lại ở mức độ gây thương tích thì người phạm tội không bị áp dụng tình tiết định khung tăng nặng vì điều luật chưa quy định.
Điểm e khoản 2 Điều 348 và điểm e khoản 2 Điều 349 BLHS năm 2015 quy định tình tiết định khung tăng nặng “tái phạm nguy hiểm” là chưa thực sự hợp lý, chưa phân hóa được TNHS. Giả sử người phạm tội bị truy tố theo khoản 3 Điều 348 nhưng có dấu hiệu “tái phạm nguy hiểm” thì lại không áp dụng tình tiết định khung này được nhưng nếu họ bị truy tố theo khoản 2 Điều 348, Điều 349 thì sẽ bị áp dụng thêm tình tiết định khung “tái phạm nguy hiểm”.
3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật
Từ những bất cập nêu trên, tác giả kiến nghị sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện các quy định của BLHS năm 2015 về các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính như sau:
Tội chống người thi hành công vụ (Điều 330): Quy định tình tiết “gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người thi hành công vụ” là tình tiết định khung hình phạt đối với Tội chống người thi hành công vụ.
Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân (Điều 331): Cần bổ sung dấu “,” giữa hai từ “tự do” và “dân chủ” để bảo đảm tính chính xác giữa quyền tự do và quyền dân chủ. Đồng thời, cần bổ sung các khoản nêu rõ các trường hợp “gây ảnh hưởng rất xấu” và “gây ảnh hưởng đặc biệt xấu” đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội cho tương ứng với khoản 2 là “gây ảnh hưởng xấu” để phân hóa tối đa TNHS.
Tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; Tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy vật hoặc tài liệu bí mật nhà nước (Điều 337):
- Bỏ cụm từ “tài liệu”, “vật” vì theo Luật bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018 thì tài liệu chỉ là một dạng bí mật nhà nước;
- Tách Điều 337 BLHS năm 2015 thành hai tội danh riêng biệt vì hành vi cố ý làm lộ bí mật nhà nước và mua bán bí mật nhà nước có mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn so với hành vi chiếm đoạt, tiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước, nếu để trong cùng một điều luật sẽ không bảo đảm tính công bằng khi truy cứu TNHS.
Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; Tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức ( Điều 341): Bỏ tình tiết định khung “sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác thực hiện tội phạm khác” bởi nếu người phạm tội sử dụng con dấu, tài liệu phạm tội khác thì đã bị truy cứu TNHS về tội độc lập đó mà sẽ không bị áp dụng tình tiết định khung này. Ngoài ra, cần bổ sung cụm từ “giấy tờ khác” vào tên điều luật để thể hiện đầy đủ đối tượng tác động của tội phạm vì tài liệu là văn bản để tìm hiểu, nghiên cứu một vấn đề nào đó. Còn giấy tờ là giấy có ghi một nội dung nhất định, liên quan đến việc công và pháp luật. Tài liệu và giấy tờ khác có nội dung không giống nhau và đều là đối tượng tác động của tội phạm.
Tội vi phạm các quy định về quản lý nhà ở (Điều 343): Tách Điều 343 BLHS năm 2015 thành hai tội danh khác nhau. Mặt khác, chiếm dụng chỗ ở là hành vi nguy hiểm hơn hành vi xây dựng nhà trái phép, nên không cần dấu hiệu “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” là dấu hiệu định tội đối với hành vi này.
Tội tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép và Tội tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép (Điều 348 và Điều 349 BLHS năm 2015): Bổ sung tình tiết định khung “tái phạm” và “gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” tại khoản 2 Điều 348 và khoản 2 Điều 349 BLHS năm 2015; bổ sung tình tiết “tái phạm nguy hiểm” vào khoản 3 Điều 348 và khoản 3 Điều 349 BLHS năm 2015.
Nguyễn Kim Chi