Một số vấn đề cần lưu ý khi kiểm sát việc giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo hiểm

Ngày đăng : 08:49, 15/09/2025

(Kiemsat.vn) - Việc giải quyết các tranh chấp hợp đồng bảo hiểm tương đối phức tạp do đối tượng của hợp đồng bảo hiểm rất đa dạng. Nhiều vụ án tranh chấp hợp đồng bảo hiểm có giá trị rất lớn, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau, nên việc thu thập, đánh giá tài liệu, chứng cứ rất khó khăn. Do đó, việc giải quyết các tranh chấp này cũng khó tránh khỏi những vi phạm.

1. Về xác định không đúng hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm, không xem xét việc vi phạm nghĩa vụ nộp phí bảo hiểm

Khoản 2 Điều 26 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010 và năm 2019 (Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000) quy định: Việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực trong trường hợp bên mua bảo hiểm thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm có văn bản chấp thuận việc chuyển nhượng đó, trừ trường hợp việc chuyển nhượng được thực hiện theo tập quán quốc tế. Khoản 3 Điều 28 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2022 cũng quy định tương tự.

Về chấm dứt hợp đồng bảo hiểm, một trong những trường hợp chấm dứt hợp đồng bảo hiểm là bên mua bảo hiểm không đóng đủ phí bảo hiểm hoặc không đóng phí bảo hiểm theo thời hạn thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Khoản 1 Điều 26 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2022 quy định bổ sung trường hợp bên mua bảo hiểm không đóng phí bảo hiểm sau thời gian gia hạn đóng phí là căn cứ doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bảo hiểm.

Thực tiễn trong nhiều trường hợp, Tòa án đã căn cứ vào hợp đồng bảo hiểm được ký hợp pháp giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người mua bảo hiểm đầu tiên để công nhận hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm, kể cả việc bên mua bảo hiểm vi phạm quy định của pháp luật kinh doanh bảo hiểm khi chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm, đồng thời vi phạm nghĩa vụ nộp phí bảo hiểm. Việc công nhận hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm trong những trường hợp này và xác định phát sinh nghĩa vụ bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm là trái quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp bảo hiểm.

Ví dụ: Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm giữa nguyên đơn - anh Phạm Ngọc C và bị đơn - Tổng công ty cổ phần B (Công ty B). Ngày 22/6/2017, anh H mua bảo hiểm thân tàu (phí bảo hiểm là 90 triệu đồng/năm) và bảo hiểm thuyền viên (2,7 triệu đồng cho 06 người/năm). Tổng mức phí bảo hiểm là 92,7 triệu đồng. Phí bảo hiểm thân tàu được thanh toán thành 02 kỳ, mỗi kỳ 50%. Anh H đã thanh toán phí bảo hiểm kỳ 1 là 45 triệu đồng và phí bảo hiểm thuyền viên là 2,7 triệu đồng cho cả năm. Anh H đã được Công ty B cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm tàu cá số 363, số tiền bảo hiểm 3 tỉ đồng và Giấy chứng nhận bảo hiểm tàu cá số 364 với số lượng 06 thuyền viên, số tiền bảo hiểm 30 triệu đồng/người/vụ. Hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm là 01 năm kể từ ngày 22/6/2017 đến 22/6/2018. Hợp đồng bảo hiểm quy định ngày 22/12/2017 là ngày cuối cùng thanh toán phí bảo hiểm lần 2. Ngày 05/9/2017, anh H chuyển nhượng tàu cá cho anh C. Khi chuyển nhượng tàu cá, anh H không thông báo cho Công ty B biết, anh C cũng không nộp phí bảo hiểm lần 2 cho Công ty B. Ngày 08/01/2018, tàu cá do anh C trên đường đánh bắt hải sản vùng biển ngoài khơi Việt Nam về đất liền thì bị tàu hàng HK đâm chìm, mất hoàn toàn. Công ty B chấp nhận bồi thường cho các thuyền viên, nhưng không chấp nhận bồi thường bảo hiểm thân tàu. Anh C khởi kiện yêu cầu Công ty B bồi thường tiền bảo hiểm tàu cá với số tiền 3 tỉ đồng. Bản án dân sự sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; bản án dân sự phúc thẩm sửa một phần bản án sơ thẩm, chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Qua việc giải quyết của Toà án hai cấp thấy rằng: 

Anh C nhận chuyển nhượng tàu cá từ anh H thì cũng được anh H chuyển toàn bộ giấy tờ bảo hiểm, nên anh C được hưởng quyền lợi bảo hiểm. Tuy nhiên, việc chuyển nhượng phải được thông báo bằng văn bản cho Công ty B biết và Công ty B có văn bản chấp thuận việc chuyển nhượng đó, thì hợp đồng bảo hiểm mới có hiệu lực theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000.

Theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm thì ngày 22/12/2017 là ngày cuối cùng phải thanh toán phí bảo hiểm kỳ 2 và tại điều này quy định: Trường hợp đến hạn thanh toán phí bảo hiểm, chủ tàu không thực hiện thanh toán đúng hạn thì hợp đồng bảo hiểm mặc nhiên chấm dứt hiệu lực bảo hiểm và giấy chứng nhận bảo hiểm không còn giá trị (trừ trường hợp được Công ty B đồng ý bằng văn bản). Mặt khác, Điều 13 Quy tắc bảo hiểm tàu cá do Công ty B ban hành theo Quyết định số 5373/QĐ-BHBV ngày 16/11/2016 mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm tàu cá đối với phạm vi bảo hiểm thân tàu (Mục 1 Phần I Điều 2) cũng quy định: Hiệu lực của của bảo hiểm tàu sẽ tự động chấm dứt ngay sau khi phát sinh một trong những trường hợp sau: a) Người được bảo hiểm không thanh toán phí bảo hiểm đầy đủ và đúng hạn theo quy định của Quy tắc này (trừ khi có thỏa thuận khác bằng văn bản)...

Như vậy, căn cứ vào thỏa thuận của các bên trong hợp đồng bảo hiểm và quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, hợp đồng bảo hiểm trên đã chấm dứt hiệu lực trước khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, nên không phát sinh trách nhiệm bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm. Do vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm buộc Công ty B bồi thường tiền bảo hiểm thân tàu cá cho ông C là không có căn cứ.

Khi kiểm sát việc giải quyết các tranh chấp hợp đồng bảo hiểm mà bên mua bảo hiểm đã chuyển nhượng/chuyển giao hợp đồng bảo hiểm cho người khác hoặc các tranh chấp về hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm, Kiểm sát viên cần lưu ý một số nội dung sau: Căn cứ vào hợp đồng bảo hiểm, Quy tắc bảo hiểm, Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 hoặc năm 2022 (tùy thuộc vào hợp đồng bảo hiểm được ký kết vào thời điểm nào) để xác định hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm; hợp đồng bảo hiểm có quy định về việc chuyển nhượng/chuyển giao hợp đồng bảo hiểm hay không, nếu hợp đồng không quy định thì bên mua bảo hiểm khi chuyển nhượng/chuyển giao đã tuân thủ nghĩa vụ thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm có văn bản chấp thuận không. Vấn đề cốt lõi khi giải quyết các tranh chấp hợp đồng bảo hiểm đã được chuyển nhượng/ chuyển giao là cần xác định hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm. Kiểm sát viên cũng cần lưu ý: Bên nhận chuyển nhượng/chuyển giao hợp đồng bảo hiểm phải có quyền lợi có thể được bảo hiểm, được kế thừa quyền và nghĩa vụ của bên chuyển giao. Mặt khác, cần xem xét các chứng cứ để xác định bên mua bảo hiểm (bên nhận chuyển nhượng/chuyển giao) có thực hiện nghĩa vụ thanh toán phí bảo hiểm đầy đủ và đúng hạn không; trường hợp bên mua bảo hiểm vi phạm nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm thì việc vi phạm đó có đủ căn cứ làm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm hay không.

Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo hiểm thấy rằng, không phải mọi trường hợp bên mua bảo hiểm không đóng phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn thì hợp đồng bảo hiểm đều chấm dứt hiệu lực. Khi xem xét các trường hợp này, Kiểm sát viên cần lưu ý Án lệ số 23/2018/AL ngày 17/10/2018 về hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ khi bên mua bảo hiểm không đóng phí bảo hiểm do lỗi của doanh nghiệp bảo hiểm và Án lệ số 37/2020/AL ngày 05/02/2020 về hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm tài sản trong trường hợp bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm sau khi kết thúc thời hạn đóng phí bảo hiểm; trên cơ sở xem xét hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm để xác định có hay không phát sinh nghĩa vụ bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm. Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, nếu Kiểm sát viên nhận thấy chưa đủ căn cứ thì cần yêu cầu Tòa án thu thập thêm tài liệu, chứng cứ để giải quyết đúng đắn vụ án; đồng thời, lưu ý kiểm sát việc Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ, đánh giá chứng cứ, nhận định về hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm có căn cứ, đúng pháp luật hay không. Trường hợp phát hiện vi phạm, Kiểm sát viên cần báo cáo lãnh đạo Viện để kháng nghị theo thẩm quyền.

2. Về xem xét việc vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin khi giao kết hợp đồng bảo hiểm

Nguyên tắc trung thực tuyệt đối là một trong những nguyên tắc cơ bản trong giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm. Điểm b khoản 2 Điều 18 và khoản 1 Điều 19 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 quy định nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm: Kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm và có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến đối tượng bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm. Khoản 2 Điều 19 Luật này cũng quy định: Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm khi bên mua bảo hiểm có một trong những hành vi: Cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc được bồi thường; không thực hiện các nghĩa vụ trong việc cung cấp thông tin cho doanh nghiệp bảo hiểm theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 18 Luật này. Hiện nay, khoản 1, 2 Điều 22 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2022 quy định chi tiết hơn: Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm trong trường hợp bên mua bảo hiểm cố ý cung cấp không đầy đủ thông tin hoặc cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được bồi thường, trả tiền bảo hiểm; doanh nghiệp bảo hiểm không phải bồi thường, trả tiền bảo hiểm…

Thực tế, các tranh chấp hợp đồng bảo hiểm mà trong đó một bên vi phạm nguyên tắc trung thực tuyệt đối, vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin xảy ra rất phổ biến, đặc biệt là sự vi phạm của bên mua bảo hiểm. Trong nhiều trường hợp, việc xác định một trong các bên có vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin hay không là không đơn giản, phụ thuộc rất nhiều vào việc thu thập, nhận định, đánh giá chứng cứ của Tòa án.

Ví dụ: Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm giữa nguyên đơn - ông Đỗ V, bà Nguyễn Thị B với bị đơn - Tổng công ty cổ phần B (Công ty B). Ngày 24/12/2010, ông V, bà B (bên A) và Công ty B (bên B) ký hợp đồng bảo hiểm mọi rủi ro trong xây dựng đối với công trình xây dựng khách sạn tại đường A, quận B, thành phố Đ. Theo hợp đồng: Bên B nhận bảo hiểm cho công trình xây dựng của bên A từ ngày 24/12/2010 đến 24/12/2012 cộng với 12 tháng bảo hiểm bảo hành. Theo giấy yêu cầu bảo hiểm mọi rủi ro trong xây dựng ngày 24/12/2010 mà ông V gửi cho Công ty B, thì thời gian xây dựng công trình là từ ngày 24/12/2010 đến 24/12/2012 (giấy yêu cầu bảo hiểm là bộ phận không tách rời của hợp đồng bảo hiểm). Quá trình thi công, ngày 12/01/2011, các hộ dân liền kề là C, D, E, F, G đường A, quận B, thành phố Đ bắt đầu khiếu nại vì công trình khách sạn gây ngập lún, nứt nhà của họ. Trên cơ sở giám định, các hộ dân yêu cầu bồi thường. Các chứng cứ do các bên cung cấp và Tòa án thu thập thể hiện thực tế công trình này được bắt đầu thi công từ ngày 30/9/2010 (trước khi ký hợp đồng bảo hiểm gần 03 tháng); nguyên nhân chính gây ra hiện tượng sụt lún, nứt tường các công trình xung quanh là do việc ép cọc và rút nước xử lý nước ngầm khi thi công đào móng công trình khách sạn A gây ra, xảy ra trước khi hai bên ký kết hợp đồng bảo hiểm. Mặt khác, theo nhật ký thi công, ngày 17/12/2010 ghi nhận công trình tạm nghỉ để giải quyết tranh chấp với các hộ dân lân cận. Biên bản làm việc ghi nhận việc tường nhà các hộ dân bị nứt từ tháng 10/2010 và Ủy ban nhân dân phường H, thành phố Đ đã quyết định đình chỉ thi công ngày 25/11/2010 đối với công trình khách sạn. Ông V, bà B khởi kiện yêu cầu Công ty B bồi thường thiệt hại. Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông V, bà B, buộc Công ty B bồi thường số tiền 569.894.000 đồng.

Qua việc giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm thấy rằng: Tòa án chưa xem xét, đánh giá đúng chứng cứ, chưa xem xét nguyên nhân và thời điểm xảy ra tổn thất, chưa xem xét các chứng cứ khoa học gồm các báo cáo giám định, nhật ký thi công, hợp đồng thi công, mà chỉ dựa vào biên bản xác minh của Tòa án đối với các hộ dân bị thiệt hại, chưa xem xét các quy định của pháp luật kinh doanh bảo hiểm và Quy tắc bảo hiểm để giải quyết, chưa xác định việc ông V, bà B vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin khi giao kết hợp đồng bảo hiểm mà chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là không đúng. Mặt khác, hợp đồng bảo hiểm quy định: Bên B không chịu trách nhiệm bồi thường đối với các tổn thất xảy ra trước ngày ký kết hợp đồng bảo hiểm. Do đó, tổn thất của các hộ dân lân cận không thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm; Công ty B không có nghĩa vụ bồi thường cho ông V, bà B.

Khi kiểm sát việc giải quyết các tranh chấp hợp đồng bảo hiểm, Kiểm sát viên cần lưu ý việc Tòa án xem xét, đánh giá đúng đắn, toàn diện chứng cứ hay không, đặc biệt là các tài liệu, chứng cứ về giám định, xác định nguyên nhân, thời gian xảy ra thiệt hại và mức độ tổn thất (đối với hợp đồng bảo hiểm tài sản, hợp đồng bảo hiểm thiệt hại) hoặc bệnh án, xét nghiệm, kết luận của các cơ sở y tế… (đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, hợp đồng bảo hiểm sức khỏe); đồng thời, kiểm sát việc Tòa án có căn cứ vào hợp đồng bảo hiểm, Quy tắc bảo hiểm, Điều 19 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 hoặc Điều 22 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2022 (tùy thuộc vào thời gian ký kết hợp đồng bảo hiểm) để xác định có hay không việc vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin, nguyên tắc trung thực tuyệt đối của các bên khi ký kết, thực hiện hợp đồng bảo hiểm và việc giải quyết hậu quả pháp lý do vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin như thế nào. Khi xem xét các vấn đề này, Kiểm sát viên cũng cần lưu ý Án lệ số 22/2018/AL ngày 17/10/2018 về không vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin tình trạng bệnh lý trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, nếu Kiểm sát viên nhận thấy chưa đủ căn cứ để giải quyết vụ án, cần yêu cầu Tòa án thu thập thêm tài liệu, chứng cứ. Trường hợp phát hiện vi phạm, Kiểm sát viên cần báo cáo lãnh đạo Viện để xem xét việc kháng nghị theo đúng thẩm quyền.

3. Về xác định không đúng căn cứ bồi thường, số tiền bồi thường, giám định tổn thất; không xem xét khấu trừ số tiền bồi thường

Đối với hợp đồng bảo hiểm tài sản, hợp đồng bảo hiểm thiệt hại, khoản 1 Điều 46 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 quy định: Số tiền bồi thường mà doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho người được bảo hiểm được xác định trên cơ sở giá thị trường của tài sản được bảo hiểm tại thời điểm, nơi xảy ra tổn thất và mức độ thiệt hại thực tế, trừ trường hợp có thoả thuận khác trong hợp đồng bảo hiểm. Để có căn cứ bồi thường, Điều 48 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 cũng quy định: Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm… thực hiện việc giám định tổn thất để xác định nguyên nhân và mức độ tổn thất. Trong các tranh chấp hợp đồng bảo hiểm này, trường hợp người thứ ba có lỗi gây thiệt hại cho người được bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm đã trả tiền bồi thường cho người được bảo hiểm, thì người được bảo hiểm phải chuyển quyền yêu cầu người thứ ba bồi hoàn khoản tiền mà mình đã nhận bồi thường cho doanh nghiệp bảo hiểm; theo khoản 1, 2 Điều 49 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, trong trường hợp người được bảo hiểm từ chối chuyển quyền, không bảo lưu hoặc từ bỏ quyền yêu cầu người thứ ba bồi thường, thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền khấu trừ số tiền bồi thường tuỳ theo mức độ lỗi của người được bảo hiểm. Hiện nay, các quy định về căn cứ bồi thường, số tiền bồi thường và giám định tổn thất, chuyển quyền yêu cầu bồi hoàn cũng được Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2022 quy định tương tự và chi tiết hơn tại các điều 51, 53, 54.

Như vậy, trong các tranh chấp hợp đồng bảo hiểm tài sản, hợp đồng bảo hiểm thiệt hại, khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, việc giám định tổn thất là cần thiết để xác định nguyên nhân và mức độ tổn thất, làm căn cứ bồi thường. Tranh chấp về số tiền bảo hiểm hay khấu trừ số tiền bảo hiểm là một trong những tranh chấp phổ biến của hợp đồng bảo hiểm, điều này đặt ra những yêu cầu trong việc thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ. Trong nhiều trường hợp, Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ chưa đầy đủ, ban hành bản án không có căn cứ pháp luật, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.

Ví dụ: Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm giữa nguyên đơn – ông Trương Văn T và bị đơn Tổng công ty cổ phần B (Công ty B). Ngày 21/3/2019, ông T tham gia bảo hiểm (thân xe) của Công ty B. Hiệu lực của hợp đồng có giá trị từ 15 giờ ngày 21/3/2019 đến 14 giờ ngày 25/7/2019. Ngày 06/6/2019, xe của ông T gặp tại nạn tại huyện M, tỉnh P. Công ty B cử người đến hiện trường xem xét thủ tục bảo hiểm. Theo biên bản giải quyết vụ án tai nạn giao thông đường thủy nội địa tại Công an huyện M, tỉnh P ngày 13/6/2019 ghi nhận: Nguyên nhân xảy ra vụ tai nạn là do ông A (người lái ô tô) điều khiển xe không quan sát gây tai nạn giao thông và ông S (thuyền trưởng) có lỗi do đưa phương tiện vào khai thác không đúng công dụng. Biên bản này cũng ghi nhận thỏa thuận trách nhiệm dân sự của các bên liên quan: Ông D (bên phía đò khách ngang sông Đ) đồng ý hỗ trợ sửa chữa xe ô tô cho ông T với số tiền 40 triệu đồng và ông T không yêu cầu ông A bồi thường số tiền sửa chữa xe. Khi xảy ra tai nạn, ông T có đơn xin từ chối giám định, nên xe ô tô không được giám định thiệt hại, ông T cung cấp hóa đơn sửa chữa xe ô tô tại garage E với tổng số tiền 407.890.000 đồng. Ông T khởi kiện yêu cầu Công ty B bồi thường 400 triệu đồng. Bản án dân sự sơ thẩm và bản án dân sự phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T, buộc Công ty B có trách nhiệm chi trả tiền bảo hiểm cho ông T là 400 triệu đồng.

Qua việc giải quyết vụ án của Tòa án hai cấp thấy rằng:

Khi xảy ra tai nạn, ông T có đơn xin từ chối giám định, nên xe của ông T không được giám định thiệt hại. Do đó, không có cơ sở xác định thiệt hại thực tế của tài sản được bảo hiểm. Mặt khác, việc ông T cung cấp hóa đơn sửa chữa xe ô tô tại garage E với tổng số tiền là 407.890.000 đồng, mà không liệt kê chi phí sửa chữa từng loại, chỉ ghi chung chung, viết tay, không có xác nhận của cá nhân, tổ chức giám định thiệt hại là không đúng quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000.

Theo biên bản giải quyết vụ án tai nạn giao thông đường thủy nội địa tại Công an huyện M, tỉnh P ngày 13/6/2019 thì ông T thỏa thuận nhận 40 triệu đồng từ ông D và không yêu cầu ông A bồi thường. Như vậy, ông T từ bỏ quyền yêu cầu người thứ ba có lỗi bồi hoàn thiệt hại, nên Công ty B có quyền khấu trừ số tiền bồi thường.

Bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm chưa thu thập đầy đủ chứng cứ, chưa làm rõ các căn cứ để xác định số tiền bồi thường, chưa xem xét chi phí sửa chữa xe có phù hợp với quy định của pháp luật hay không, mà quyết định buộc Công ty B bồi thường số tiền 400 triệu đồng là chưa đủ cơ sở. Mặt khác, Tòa án cũng chưa xem xét việc khấu trừ số tiền bảo hiểm cho Công ty B là thiếu sót, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của Công ty B.

Khi kiểm sát việc giải quyết các tranh chấp hợp đồng bảo hiểm tài sản, hợp đồng bảo hiểm thiệt hại mà các bên có tranh chấp về số tiền bồi thường, Kiểm sát viên cần lưu ý căn cứ vào hợp đồng bảo hiểm, Quy tắc bảo hiểm, Luật kinh doanh bảo hiểm, các tài liệu, chứng cứ để xác định căn cứ bồi thường, số tiền bồi thường. Nếu hợp đồng bảo hiểm không có thỏa thuận khác thì số tiền bồi thường được xác định trên cơ sở giá thị trường của tài sản được bảo hiểm tại thời điểm, nơi xảy ra tổn thất và mức độ thiệt hại thực tế, số tiền bồi thường không vượt quá số tiền bảo hiểm. Đồng thời, cần xem xét việc xảy ra sự kiện bảo hiểm có trách nhiệm bồi thường của người thứ ba hay không, người được bảo hiểm từ chối hay chuyển quyền yêu cầu bồi hoàn cho doanh nghiệp bảo hiểm để xác định số tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho người được bảo hiểm sau khi khấu trừ số tiền tương ứng với mức độ lỗi của người được bảo hiểm. Ngoài ra, cần lưu ý xác định số tiền bồi thường trong một số trường hợp như: Hợp đồng bảo hiểm trùng, hợp đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị, hợp đồng bảo hiểm tài sản dưới giá trị… Trong các hợp đồng bảo hiểm tài sản, bảo hiểm thiệt hại, Kiểm sát viên cần lưu ý không buộc cha, mẹ, vợ, chồng, con của người được bảo hiểm bồi hoàn khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm đã trả cho người được bảo hiểm nếu những người này không cố ý gây ra thiệt hại. Đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, hợp đồng bảo hiểm sức khỏe, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm, số tiền bảo hiểm được quy định trong hợp đồng bảo hiểm. Đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm sức khỏe, doanh nghiệp bảo hiểm không có quyền yêu cầu người thứ ba (gây ra thiệt hại về tính mạng, sức khỏe cho người được bảo hiểm) bồi hoàn khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm đã trả cho người thụ hưởng. Như vậy, Kiểm sát viên cần lưu ý kiểm sát việc Tòa án đã xem xét, căn cứ vào hợp đồng bảo hiểm, Quy tắc bảo hiểm, pháp luật kinh doanh bảo hiểm hay chưa, việc thu thập tài liệu, chứng cứ có đầy đủ, đánh giá chứng cứ đúng hay không về các vấn đề như: Căn cứ bồi thường, việc giám định tổn thất, số tiền bồi thường trong các trường hợp nêu trên. Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, nếu Kiểm sát viên nhận thấy chưa đủ căn cứ, cần yêu cầu Tòa án thu thập thêm tài liệu, chứng cứ để giải quyết đúng đắn vụ án. Trường hợp phát hiện vi phạm của Tòa án, Kiểm sát viên cần báo cáo lãnh đạo Viện để kháng nghị theo thẩm quyền.

4. Về việc không xem xét thỏa thuận của các bên về hình thức bồi thường trong hợp đồng bảo hiểm

Khoản 1, 2 Điều 47 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 và khoản 1, 2 Điều 52 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2022 đều quy định: Bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm có thể thoả thuận một trong các hình thức bồi thường: Sửa chữa tài sản bị thiệt hại; thay thế tài sản bị thiệt hại bằng tài sản khác; trả tiền bồi thường; trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm không thoả thuận được về hình thức bồi thường thì việc bồi thường sẽ được thực hiện bằng tiền. Như vậy, trường hợp các bên đã có thỏa thuận một trong các hình thức bồi thường thì mặc nhiên áp dụng hình thức bồi thường đã thỏa thuận. Thực tiễn xét xử, có trường hợp Tòa án vi phạm không xem xét thoả thuận của các bên trong hợp đồng bảo hiểm mà chấp nhận yêu cầu của bên mua bảo hiểm, áp dụng hình thức bồi thường bằng tiền.

Ví dụ: Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm giữa nguyên đơn - Công ty cổ phần N (Công ty N) và bị đơn - Tổng công ty cổ phần bảo hiểm P (Công ty P). Ngày 25/12/2019, Công ty N ký hợp đồng bảo hiểm thân tàu với Công ty P. Theo đó, Công ty P nhận bảo hiểm thân tàu (vỏ tàu, máy móc, trang thiết bị) cho tàu V. Thời hạn bảo hiểm từ 0 giờ ngày 04/01/2020 đến 23 giờ 59 phút ngày 03/01/2021 theo giờ Việt Nam. Giá trị bảo hiểm/số tiền bảo hiểm khai báo là 40 tỉ đồng. Theo hợp đồng, các bên lựa chọn hình thức bồi thường là sửa chữa tàu khi xảy ra sự cố hư hỏng tàu. Ngày 30/8/2020, tàu V xảy ra sự cố máy. Ngày 31/8/2020, tàu được kéo về cảng C an toàn. Công ty P đã tiến hành chỉ định Công ty cổ phần giám định B giám định các tổn thất được bảo hiểm trên tàu V. Ngày 07/9/2020, Công ty B đã có báo cáo giám định sơ bộ về sự cố để đánh giá sơ bộ về sự cố, chi phí khắc phục với nội dung: Công ty B tiếp tục theo dõi quá trình khắc phục sự cố, thu thập hồ sơ, giấy tờ liên quan sau sự cố, đưa ra nhận định, nguyên nhân sự cố sớm nhất. Đồng thời, tại báo cáo giám định này cũng lưu ý: Chủ tàu lưu giữ các chi tiết thay ra để cơ quan bảo hiểm xem xét nếu thuộc phạm vi bảo hiểm. Ngày 29/9/2020, Công ty N có thư yêu cầu bồi thường gửi Công ty P. Ngày 13/10/2020, Công ty N bán toàn bộ tàu cho Công ty A với giá 4 tỉ đồng. Sau đó, Công ty P đã có văn bản với nội dung khẳng định sẽ bồi thường tất cả những chi phí sửa chữa, khắc phục, thay thế. Tuy nhiên, các khoản chi phí này sẽ được thanh toán sau khi Công ty N thực hiện xong các công việc sửa chữa, khắc phục, thay thế và cung cấp cho Công ty P các hóa đơn, chứng từ liên quan do Công ty B tập hợp và tính toán. Sau đó, Công ty N chỉ định Công ty D tư vấn, đánh giá chi phí sửa chữa tàu. Ngày 27/01/2021, Công ty D đã có chứng thư tư vấn, đánh giá chi phí sửa chữa tàu là 21.764.196.092 đồng. Trên cơ sở chứng thư tư vấn này, Công ty N khởi kiện Công ty P bồi thường 11,8 tỉ đồng. Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm căn cứ vào chứng thư tư vấn, đánh giá chi phí sửa chữa tàu của Công ty D để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty N.

Qua việc giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm thấy rằng: Theo hợp đồng, các bên lựa chọn hình thức bồi thường là sửa chữa khi xảy ra sự cố hư hỏng tàu, nên hình thức bồi thường này sẽ mặc nhiên được áp dụng khi sự cố bảo hiểm xảy ra làm hư hỏng tàu (việc bồi thường bằng tiền có thể được xem xét khi sự cố xảy ra khiến tàu chìm, trôi dạt không thể trục vớt được). Tuy nhiên, trong quá trình tiến hành yêu cầu đòi bảo hiểm, Công ty N đã bán tàu cho Công ty A mà không thông báo trước khi bán hay được sự đồng ý của Công ty P và việc mua bán không qua đấu giá. Chứng thư tư vấn của Công ty D ngày 27/01/2021 (sau khi đã bàn giao tàu cho Công ty A hơn 03 tháng) chỉ là báo cáo tư vấn để Công ty N tham khảo, đánh giá, lựa chọn đơn vị sửa chữa với chi phí hợp lý và kinh tế nhất, mà không phải là chứng thư giám định do doanh nghiệp bảo hiểm chỉ định để làm căn cứ xác định giá trị bồi thường. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào chứng thư tư vấn của Công ty D để nhận định rằng đây là chứng thư giám định, không xem xét thỏa thuận của các bên trong hợp đồng bảo hiểm, mà chấp nhận yêu cầu bồi thường của Công ty N là không đúng quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000.

Một trong những nội dung Kiểm sát viên cần lưu ý khi kiểm sát việc giải quyết các tranh chấp hợp đồng bảo hiểm hàng hóa, hợp đồng bảo hiểm thiệt hại là xem xét thỏa thuận của các bên về hình thức bồi thường trong hợp đồng bảo hiểm, quy tắc bảo hiểm hoặc sau khi sự kiện bảo hiểm xảy ra. Trường hợp các bên không thỏa thuận được về hình thức bồi thường hoặc hình thức bồi thường do các bên thỏa thuận không khả thi, thì có thể áp dụng hình thức bồi thường bằng tiền. Trường hợp Tòa án giải quyết vụ án không căn cứ vào hợp đồng bảo hiểm, Quy tắc bảo hiểm, pháp luật kinh doanh bảo hiểm, Kiểm sát viên cần báo cáo lãnh đạo Viện để kháng nghị theo thẩm quyền.

5. Việc áp dụng quy định về điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm

Khoản 2 Điều 16 và điểm a khoản 3 Điều 16 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 quy định: Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm phải được quy định rõ trong hợp đồng bảo hiểm; doanh nghiệp bảo hiểm phải giải thích rõ cho bên mua bảo hiểm khi giao kết hợp đồng; không áp dụng điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trong trường hợp bên mua bảo hiểm vi phạm pháp luật do vô ý. Theo điểm a, b khoản 2 Điều 17 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ: Giải thích cho bên mua bảo hiểm về các điều kiện, điều khoản bảo hiểm; quyền, nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm; cấp cho bên mua bảo hiểm giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm ngay sau khi giao kết hợp đồng bảo hiểm. Hiện nay, Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2022 quy định nội dung này chi tiết hơn. Từ các quy định trên cho thấy, không thể tùy tiện áp dụng điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm. Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc bên mua phải được biết, được giải thích rõ ràng từ doanh nghiệp bảo hiểm. Thực tiễn giải quyết các tranh chấp hợp đồng bảo hiểm, nhiều trường hợp Tòa án nhận định, đánh giá chứng cứ không đúng, áp dụng điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.

Ví dụ: Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm giữa nguyên đơn - ông Nguyễn Thế T và bị đơn - Tổng công ty cổ phần B (Công ty B). Ngày 19/6/2019, ông T ký hợp đồng bảo hiểm tàu cá với Công ty B; thời hạn bảo hiểm từ 00 giờ 00 ngày 21/6/2019 đến 24 giờ 00 ngày 20/6/2020; đối tượng bảo hiểm: Thân tàu 18 tỉ đồng; phí bảo hiểm 171 triệu đồng; thuyền viên (07 người): 50 triệu đồng/người/vụ; phí bảo hiểm 1.750.000 đồng. Sau khi ký kết hợp đồng, ông T đã đóng phí bảo hiểm đủ và đúng hạn. Ngày 06/7/2019, trong lúc đang khai thác hải sản, thì tàu cá của ông T bỗng nhiên bốc cháy dữ dội và chìm xuống biển. Báo cáo giám định về tổn thất tàu cá ngày 28/8/2020 của Công ty cổ phần giám định T kết luận: Tàu cá của ông T đã bị tổn thất toàn bộ. Công ty B cho rằng, tàu cá của ông T bị cháy và chìm tại toạ độ 17°51’N-106°59’E (vùng lộng), trong khi giấy phép khai thác thủy sản quy định vùng hoạt động là vùng khơi; để từ đó dẫn chiếu Quyết định số 0001/2017-BMHH do Công ty B ban hành ngày 01/01/2017 (Quyết định số 0001) để loại trừ bảo hiểm cho tàu cá của ông T. Ngày 30/6/2020, Chi cục thủy sản tỉnh Q đã có công văn với nội dung: “Vị trí này thuộc vùng biển Việt Nam, trong quá trình hoạt động trên biển, các tàu cá phải di chuyển liên tục để tìm kiếm ngư trường hoặc đi theo đàn cá, nên việc tàu cá của ông T trong khi hoạt động có đi qua vùng biển này (vùng lộng) là điều hợp lý”. Bên cạnh đó, ông Trần Minh H (người bán bảo hiểm cho ông T) xác định: Sau khi ký kết hợp đồng, ông H gửi hợp đồng bảo hiểm cho ông T bằng cách gửi xe buýt, nhưng không gửi bản quy tắc loại trừ trách nhiệm bảo hiểm kèm theo hợp đồng cho ông T. Ông H gửi bản quy tắc sau bằng file PDF (không gửi bản giấy). Ông T khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty B bồi thường bảo hiểm số tiền 18 tỉ đồng. Bản án dân sự sơ thẩm và Bản án dân sự phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T.

Qua việc giải quyết của Tòa án hai cấp thấy rằng:

- Ông T không nhận được bản Quy tắc loại trừ trách nhiệm bảo hiểm và Công ty B cũng không cung cấp được tài liệu để chứng minh đã giao bản Quy tắc loại trừ trách nhiệm bảo hiểm hay đã giải thích rõ điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm cho ông T khi giao kết hợp đồng bảo hiểm. Do đó, không thể áp dụng điều khoản loại trừ được quy định tại Quyết định số 0001 để loại trừ bảo hiểm cho tàu cá gặp nạn của ông T.

- Giả sử trường hợp tàu cá của ông T vi phạm vùng hoạt động thì cũng là do “vô ý” và không áp dụng điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm theo điểm a khoản 3 Điều 16 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000. Bản án dân sự sơ thẩm và bản án dân sự phúc thẩm nhận định tàu cá của ông T hoạt động đánh bắt sai vùng và vi phạm quy định về thiết bị giám sát, từ đó dẫn chiếu Quyết định số 0001 để loại trừ bảo hiểm cho tàu cá gặp nạn của ông T là không đúng quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông T.

Khi kiểm sát việc giải quyết các tranh chấp hợp đồng bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm từ chối bồi thường với lý do rủi ro xảy ra thuộc trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm, thì Kiểm sát viên cần lưu ý các quy định của pháp luật kinh doanh bảo hiểm về điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm; xem xét hợp đồng bảo hiểm, Quy tắc bảo hiểm có quy định đầy đủ về các điều khoản loại trừ bảo hiểm hay không, doanh nghiệp bảo hiểm đã thực hiện đúng nghĩa vụ về giải thích rõ ràng, đầy đủ và có bằng chứng xác nhận việc bên mua bảo hiểm đã được giải thích và hiểu rõ nội dung này khi giao kết hợp đồng bảo hiểm hay chưa, xem xét doanh nghiệp bảo hiểm có thực hiện việc cung cấp cho bên mua bảo hiểm bản yêu cầu bảo hiểm, bảng câu hỏi liên quan đến rủi ro được bảo hiểm, đối tượng bảo hiểm, quy tắc, điều kiện, điều khoản bảo hiểm; giải thích rõ ràng, đầy đủ cho bên mua bảo hiểm về quyền lợi bảo hiểm, điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm, quyền và nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm khi giao kết hợp đồng bảo hiểm hay chưa. Nếu doanh nghiệp bảo hiểm vi phạm các nội dung trên thì chưa đủ căn cứ để loại trừ trách nhiệm bảo hiểm.

Bên cạnh đó, khi kiểm sát việc giải quyết các tranh chấp hợp đồng bảo hiểm, Kiểm sát viên cần lưu ý quy định về giải thích hợp đồng bảo hiểm, trường hợp hợp đồng bảo hiểm có điều khoản không rõ ràng dẫn đến cách hiểu khác nhau thì điều khoản đó được giải thích theo hướng có lợi cho bên mua bảo hiểm, điều này cũng phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 về hợp đồng theo mẫu (hợp đồng theo mẫu có điều khoản không rõ ràng thì bên đưa ra hợp đồng theo mẫu phải chịu bất lợi khi giải thích điều khoản đó. Hợp đồng theo mẫu có điều khoản miễn trách nhiệm của bên đưa ra hợp đồng theo mẫu, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi chính đáng của bên kia thì điều khoản này không có hiệu lực, trừ trường hợp có thỏa thuận khác). Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, nếu Kiểm sát viên nhận thấy chưa đủ căn cứ để giải quyết vụ án, thì cần yêu cầu Tòa án thu thập thêm tài liệu, chứng cứ; trường hợp phát hiện Tòa án vi phạm việc áp dụng điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm, Kiểm sát viên cần báo cáo lãnh đạo Viện để xem xét kháng nghị theo thẩm quyền.

Ngoài các vi phạm nêu trên, một trong những vi phạm phổ biến khi giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo hiểm là vi phạm về tính tiền lãi do chậm thanh toán số tiền bồi thường, xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng… Để nâng cao chất lượng kiểm sát việc giải quyết các tranh chấp hợp đồng bảo hiểm, Kiểm sát viên cần nắm vững các quy định của pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nói chung, nghiên cứu kỹ hợp đồng bảo hiểm, Quy tắc bảo hiểm và tham khảo các dạng vi phạm phổ biến của Tòa án. Tùy từng trường hợp cụ thể, Kiểm sát viên thực hiện các quyền yêu cầu, báo cáo lãnh đạo Viện để kháng nghị, kiến nghị từng vụ việc hoặc tập hợp kiến nghị chung.

Nguyễn Thị Thu Trang - Đào Thị Diệu Thương

Theo Tạp chí Kiểm sát in số 21/2024