Viện kiểm sát nhân dân trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xu hướng phát triển trong kỷ nguyên mới
Ngày đăng : 06:22, 02/09/2025
Có thể khẳng định rằng, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Viện kiểm sát nhân dân không chỉ phản ánh sự phát triển về lý luận trong tổ chức và thực thi quyền lực tư pháp, mà còn là sự kết tinh từ thực tiễn đổi mới, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Trong giai đoạn phát triển mới, việc tiếp tục hoàn thiện tổ chức, nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên, hiện đại hóa hoạt động kiểm sát và tăng cường kiểm soát quyền lực trong lĩnh vực tư pháp sẽ là những điều kiện quyết định để Viện kiểm sát nhân dân thực sự phát huy vai trò là một thiết chế trọng yếu trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) giữ một vị trí đặc biệt trong bộ máy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Sinh thời, V.I.Lênin với tư cách là người đứng đầu Nhà nước Xô viết, Người đã thấy vai trò quan trọng của pháp luật và pháp chế. Chính vì vậy, V.I.Lênin là người đặt nền móng cho mô hình Viện kiểm sát ở Liên Xô, người sáng lập ra nhà nước kiểu mới, tìm kiếm mô hình cơ quan thay thế cho mô hình Viện công tố của Nga hoàng. Tư tưởng của V.I. Lênin về VKSND đã định hình nên mô hình tổ chức kiểm sát kiểu mới trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa (XHCN), nhấn mạnh vai trò của pháp luật như một công cụ quan trọng của chuyên chính vô sản, đồng thời đặt nền tảng lý luận vững chắc cho việc xây dựng hệ thống kiểm sát trong các quốc gia XHCN, trong đó có Việt Nam. Những quan điểm đó đến nay vẫn giữ nguyên giá trị về mặt nguyên lý và có ý nghĩa sâu sắc trong việc tiếp tục hoàn thiện tổ chức và hoạt động của VKSND trong Nhà nước pháp quyền XHCN hiện đại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng của V.I Lênin về VKSND phù hợp vào thực tiễn của nước ta. Năm 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo soạn thảo Hiến pháp và đặt nền tảng cơ sở pháp lý quan trọng cho sự ra đời của cơ quan VKSND. Ngày 26/7/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Lệnh số 20-LCT công bố Luật tổ chức VKSND. Trong quá trình lãnh đạo Cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vị trí, vai trò của VKSND. Không chỉ xây dựng, củng cố tổ chức, hoạt động bộ máy mà còn quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ Kiểm sát “công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo rất sâu sắc và toàn diện từ việc hoàn thiện tổ chức bộ máy đến nhân sự lãnh đạo cho ngành, đồng thời, đặt ra yêu cầu cụ thể đối với mỗi cán bộ Kiểm sát.
Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo luôn thường xuyên quan tâm củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của VKSND để VKSND giữ vai trò là cơ quan bảo vệ pháp luật, thực hiện sứ mệnh bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, qua đó góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội và phát triển đất nước theo định hướng XHCN. Viện kiểm sát nhân dân còn có vai trò tham mưu, đề xuất đối với Đảng, Nhà nước về những vấn đề liên quan đến hoạt động lập pháp, cải cách tư pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, cũng như phản ánh những bất cập trong thực tiễn thi hành pháp luật. Thông qua hoạt động thực tiễn, Viện kiểm sát có điều kiện tiếp cận sâu sát với hệ thống pháp luật và các mối quan hệ xã hội phức tạp, từ đó cung cấp những thông tin có giá trị cho quá trình hoạch định chính sách, pháp luật và chiến lược phát triển tư pháp quốc gia. Đây là thiết chế không thể thiếu trong việc bảo đảm pháp luật được thực thi công minh, góp phần giữ vững niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng Viện kiểm sát nhân dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa qua 40 năm đổi mới
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, VKSND các cấp đã không ngừng phấn đấu, trưởng thành, vượt qua nhiều thử thách để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần vào thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cũng như của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước.
Ngày 30/01/1985, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 57-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với ngành Kiểm sát, Tòa án, Tư pháp, trong đó nêu yêu cầu: “Để bảo đảm sự lãnh đạo thường xuyên của cấp ủy Đảng và chính quyền các tỉnh, thành, quận, huyện cần bố trí cấp ủy viên làm Viện trưởng VKSND”. Đại hội lần thứ VI của Đảng - Đại hội đổi mới, để xây dựng Nhà nước pháp quyền trong điều kiện mới đặt ra phải “quản lý đất nước bằng pháp luật, chứ không chỉ bằng đạo lý. Pháp luật là thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của Nhân dân, phải được thực hiện thống nhất trong cả nước. Tuân theo pháp luật là chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng. Quản lý bằng pháp luật đòi hỏi phải quan tâm xây dựng pháp luật. Từng bước bổ sung và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật để bảo đảm cho bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo pháp luật”.
Đại hội lần thứ VII của Đảng xác định cần phải: “Tăng cường hiệu lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Đổi mới hệ thống tổ chức và hoạt động của VKSND. Bảo đảm các điều kiện và phương tiện cần thiết để các cơ quan bảo vệ pháp luật làm tốt nhiệm vụ”. Tiếp tục hiện thực hóa Nghị quyết Đại hội VII, Bộ Chính trị ban hành Thông báo số 21-TB/TW ngày 02/4/1992 cho ý kiến về một số vấn đề trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1980 nêu rõ về VKSND (Điều 139 và Điều 140): “Nên giữ cả hai chức năng kiểm sát chung và công tố của Viện kiểm sát”. Hiến pháp năm 1992 được Quốc hội thông qua quy định về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát, đó là: “Viện kiểm sát nhân dân tối cao kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các bộ, các cơ quan ngang bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các VKSND địa phương, các Viện kiểm sát quân sự kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi trách nhiệm do luật định. Đây là sự tiếp bước, bổ sung, hoàn thiện trên cơ sở Hiến pháp năm 1980 để phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ trong điều kiện đất nước đổi mới, mở cửa hội nhập và đặc biệt khẳng định rõ, đầy đủ hơn về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát.
Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 26/6/1992 của Hội nghị lần thứ ba, Ban Chấp hành trung ương Đảng (khoá VII) về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng xác định một trong những nội dung để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đó là sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Toà án và Viện kiểm sát: Cấp ủy định kỳ nghe Ban cán sự báo cáo tình hình và nêu những định hướng chỉ đạo và kiểm tra để bảo đảm thực hiện đúng pháp luật. Ngày 14/11/1992, Bộ Chính trị ban hành Quyết định số 47-QĐ/TW về việc thành lập Ban cán sự Đảng VKSND tối cao với các nhiệm vụ: Lãnh đạo ngành Kiểm sát thực hiện đúng đắn đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng; thực hiện các nghị quyết của Đảng về tổ chức, cán bộ, quyết định những vấn đề về tổ chức, cán bộ theo sự phân công, phân cấp của Bộ Chính trị; kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng trong hoạt động của ngành Kiểm sát; chịu trách nhiệm trước Bộ Chính trị, Ban Bí thư về những đề xuất và quyết định của Ban cán sự Đảng; phối hợp với Đảng ủy khối và Đảng ủy cơ quan xây dựng Đảng bộ cơ quan VKSND tối cao trong sạch, vững mạnh. Ngày 21/3/2000, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 53-CT/TW về một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000, yêu cầu: “Tăng cường trách nhiệm pháp lý của VKSND đối với công tác bắt, giam, giữ”. Đồng thời, giao trách nhiệm, thẩm quyền cũng như từng bước hoàn thiện hơn về chức năng, nhiệm vụ của VKSND các cấp.
Ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, trong đó yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động và đề cao trách nhiệm của Viện kiểm sát các cấp phải “thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp... Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác… Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ, bảo đảm đúng pháp luật; những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan, sai trong bắt, giữ. Viện kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về những oan sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình”. Nghị quyết là mốc quan trọng trong quá trình định hướng cải cách tư pháp, đặc biệt là trong việc nâng cao vai trò, trách nhiệm, chất lượng hoạt động của VKSND. Ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, đề ra nhiệm vụ cải cách tư pháp phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp, về cơ bản Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án.
Đại hội XI của Đảng đề ra nhiệm vụ “Viện kiểm sát được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức Toà án, bảo đảm tốt hơn các điều kiện để VKSND thực hiện hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra”. Đảng ta với quyết tâm chính trị mạnh mẽ trong việc cải tổ toàn diện hệ thống tư pháp theo hướng dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, đồng thời nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật. Trong đó, VKSND - với vai trò là một thiết chế trung tâm trong kiểm sát quyền lực tư pháp, được xác định là chủ thể cần được đổi mới cả về tổ chức và phương thức hoạt động.
Sự kiện Hiến pháp năm 2013 ghi nhận chức năng, nhiệm vụ của VKSND và việc ban hành Luật tổ chức VKSND năm 2014 là quá trình kế thừa - phát triển - thể chế hóa một cách bài bản và chiến lược đường lối cải cách tư pháp của Đảng ta. Đây là biểu hiện sinh động của việc đưa nghị quyết của Đảng thành hiện thực pháp lý, đồng thời phản ánh: Tính kỷ cương trong tổ chức và vận hành quyền lực tư pháp; cam kết bảo vệ quyền con người bằng công cụ pháp lý hiệu quả và khả năng thích ứng, đổi mới của VKSND trong kỷ nguyên chuyển đổi số và hội nhập quốc tế.
Đại hội lần thứ XII của Đảng tiếp tục đề ra nhiệm vụ: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án; tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra”. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục yêu cầu: “Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của Tòa án nhân dân, VKSND, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp; giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các loại tranh chấp, khiếu kiện theo luật định; phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với hoạt động của tội phạm và vi phạm pháp luật”. Đặc biệt, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới, đã đề ra 10 nhóm nhiệm vụ và giải pháp, nhấn mạnh việc xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Trong đó, tiếp tục định hướng yêu cầu: “Hoàn thiện thể chế để VKSND thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; hoàn thiện cơ chế tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, tăng cường kiểm soát bên trong việc thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động xét xử phù hợp với nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Trong bối cảnh hiện nay, VKSND được định vị không chỉ là một chủ thể tố tụng thực thi pháp luật, mà còn là thiết chế đóng vai trò chủ động, tích cực trong việc kiểm soát quyền lực tư pháp, phòng ngừa oan sai, bảo vệ sự công minh và hiệu lực của công lý. Các định hướng vừa thể hiện quyết tâm chính trị cao của Đảng trong việc hiện thực hóa Nhà nước pháp quyền XHCN, vừa mở ra không gian cải cách sâu rộng cho hệ thống VKSND. Đây là cơ sở quan trọng để ngành Kiểm sát tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa về tổ chức, hoạt động và phương thức vận hành; góp phần tích cực vào quá trình xây dựng một nền tư pháp dân chủ, nhân văn, vì công lý, vì Nhân dân.
Nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của cơ quan tư pháp nói chung, VKSND nói riêng, trong kỷ nguyên mới, dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội lần thứ XIV yêu cầu: Tiếp tục đổi mới tổ chức tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả của hệ thống Tòa án nhân dân, VKSND; hoàn thiện các thiết chế trợ giúp pháp lý, bổ trợ tư pháp và các thiết chế khác, nhằm xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính; nâng cao hiệu quả các cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài Tòa.
Qua 40 năm đổi mới, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng VKSND trong Nhà nước pháp quyền XHCN đã không ngừng được phát triển, bổ sung và hoàn thiện trên cơ sở thực tiễn Cách mạng, yêu cầu cải cách tư pháp và mục tiêu xây dựng Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Từ những nhận thức ban đầu về vai trò kiểm sát việc tuân theo pháp luật, Đảng đã từng bước khẳng định và cụ thể hóa vị trí, chức năng, nhiệm vụ của VKSND như một thiết chế trung tâm trong việc bảo vệ pháp chế XHCN, giữ gìn công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân và lợi ích của Nhà nước, tổ chức, cá nhân. Tư duy chỉ đạo của Đảng về xây dựng VKSND đã chuyển biến từ việc coi trọng tính hành chính - giám sát sang mô hình kiểm sát tư pháp chuyên nghiệp, độc lập tương đối, gắn trách nhiệm công tố với điều tra, kiểm sát xét xử theo hướng dân chủ, nhân văn, hiện đại.
2. Những vấn đề đặt ra đối với xây dựng Viện kiểm sát nhân dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xu hướng phát triển trong kỷ nguyên mới
Một là, xác định vai trò, chức năng trong cơ chế phân công và kiểm soát quyền lực của VKSND trong Nhà nước pháp quyền XHCN và xu hướng phát triển hiện nay. Một trong những vấn đề có tính nền tảng trong việc tiếp tục xây dựng, hoàn thiện VKSND trong Nhà nước pháp quyền XHCN là xác định đúng, rõ ràng và khoa học về vai trò, chức năng của cơ quan này trong tổng thể cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước. Trong điều kiện mới, đặc biệt là khi yêu cầu về công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình và tranh tụng dân chủ ngày càng cao, vai trò của Viện kiểm sát cần được xác lập rõ hơn để tránh chồng chéo chức năng, trùng lặp thẩm quyền với Tòa án hoặc Cơ quan điều tra. Việc xác định đúng vai trò và chức năng của Viện kiểm sát cũng có ý nghĩa lớn trong việc bảo đảm tính độc lập trong kiểm sát, nhất là trong điều kiện các thiết chế hành pháp và tư pháp có xu hướng gia tăng quyền lực dưới áp lực cải cách. Một mặt, Viện kiểm sát phải đảm bảo sự phối hợp hiệu quả với các cơ quan tiến hành tố tụng khác để bảo vệ quyền lợi của Nhà nước và công dân; mặt khác, phải giữ được tính độc lập nghiệp vụ để thực hiện giám sát một cách khách quan, không thiên vị. Đây là yêu cầu đặc biệt quan trọng để Viện kiểm sát không chỉ làm tốt vai trò “kiểm sát pháp lý” mà còn góp phần kiểm soát quyền lực nhà nước một cách thiết thực, từ đó củng cố lòng tin của nhân dân đối với nền tư pháp.
Hai là, xây dựng tổ chức bộ máy VKSND đáp ứng yêu cầu tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, gắn với sắp xếp lại hệ thống, theo đó bỏ Viện kiểm sát cấp huyện và VKSND cấp cao. Trong tiến trình cải cách tổ chức bộ máy nhà nước, yêu cầu tái cấu trúc hệ thống Viện kiểm sát không chỉ là xu thế tất yếu nhằm đồng bộ hóa với mô hình Nhà nước pháp quyền XHCN mà còn là một yêu cầu cấp thiết để thích ứng với mô hình quản trị hiện đại, tập trung, chuyên sâu và có tính liên thông cao. Tuy nhiên, việc tinh gọn bộ máy không thể được thực hiện một cách cơ học, chỉ dừng lại ở việc giảm số đơn vị hay cắt giảm biên chế, mà phải được thiết kế lại theo hướng tối ưu hóa tổ chức, phân cấp, phân quyền hợp lý và đảm bảo không làm giảm chất lượng kiểm sát cũng như khả năng tiếp cận công lý của người dân.
Việc chấm dứt hoạt động của VKSND cấp huyện và VKSND cấp cao đặt ra yêu cầu tái thiết toàn diện mô hình tổ chức từ trung ương đến địa phương theo phương châm “ít tầng nấc, nhiều chuyên môn, linh hoạt và hiệu quả”. Điều này đòi hỏi phải rà soát, xác lập lại ranh giới chức năng - nhiệm vụ giữa các cấp, tránh tình trạng “khoán trắng”, chồng chéo hoặc rơi vào khoảng trống giám sát trong những vụ việc vượt thẩm quyền. Đặc biệt, khi xóa bỏ cấp huyện - nơi vốn có chức năng gần dân, xử lý các vụ án phổ biến - cần xây dựng các cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận công lý không bị gián đoạn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, nơi hạ tầng giao thông, thông tin còn nhiều hạn chế. Nếu không cẩn trọng, việc sắp xếp này có thể tạo ra “khoảng trắng kiểm sát” ở cấp cơ sở, ảnh hưởng đến hiệu lực thi hành pháp luật. Với xu hướng bỏ VKSND cấp cao - thiết chế trung gian trong kiểm sát phúc thẩm, giám đốc thẩm - vấn đề đặt ra là làm thế nào để các Viện kiểm sát địa phương vừa có khả năng xử lý tốt án sơ thẩm, vừa đủ năng lực tham gia tranh tụng ở cấp phúc thẩm, thủ tục giám đốc thẩm mà không phụ thuộc vào cấp trung gian. Khi không còn thiết chế này, vai trò phối hợp nghiệp vụ, đào tạo chuyên sâu, điều phối phân loại án giữa các vùng sẽ bị thiếu hụt nếu không có cơ chế thay thế đủ mạnh, chẳng hạn như tổ chức các đơn vị nghiệp vụ chuyên sâu trực thuộc VKSND tối cao theo khu vực hoặc theo lĩnh vực chuyên biệt.
Mô hình tổ chức mới cần ưu tiên các đơn vị chuyên trách thuộc Viện kiểm sát gắn với tính chất vụ án, thay vì chỉ thuần túy theo địa giới hành chính. Việc hình thành các đơn vị kiểm sát chuyên sâu về án tham nhũng, tội phạm mạng, án môi trường, tội phạm xuyên quốc gia,… không những góp phần nâng cao tính chuyên môn và hiệu quả xử lý, mà còn bảo đảm năng lực kiểm sát trong các vụ việc phức tạp, có tính chất liên ngành, liên vùng. Những mô hình này không thay thế hoàn toàn hệ thống Viện kiểm sát theo lãnh thổ, nhưng sẽ đóng vai trò hỗ trợ, định hướng nghiệp vụ, đào tạo chuyên môn và giám sát theo chiều sâu, đặc biệt trong bối cảnh tội phạm ngày càng tinh vi, đa dạng và có yếu tố quốc tế. Song song với đó, việc tinh gọn bộ máy cần đi đôi với cải cách mạnh mẽ về cơ chế tổ chức, quản lý cán bộ Kiểm sát. Từ trung ương đến cơ sở, phải chuyển từ cơ chế phân công cứng nhắc sang phân quyền linh hoạt, đề cao vai trò cá nhân và tính chịu trách nhiệm cụ thể của Viện trưởng, Kiểm sát viên chủ trì. Điều này đòi hỏi hệ thống kiểm tra, giám sát nội bộ được tổ chức khoa học, minh bạch và được hỗ trợ bằng công nghệ - thông qua việc áp dụng hệ thống thông tin quản lý điện tử, mã hồ sơ nghiệp vụ, sơ đồ số hóa vụ án, và tích hợp dữ liệu tố tụng liên ngành. Qua đó, không những tiết kiệm nguồn lực, rút ngắn thời gian xử lý tạo ra nền tảng để giám sát minh bạch mọi hoạt động nghiệp vụ trong thời gian thực.
Ba là, chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên cần phải được nâng cao đáp ứng yêu cầu tố tụng hiện đại. Trong bối cảnh cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm, có ý nghĩa quyết định đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động của VKSND. Đội ngũ Kiểm sát viên hiện nay đã có những chuyển biến tích cực về bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp. Tuy nhiên, so với yêu cầu ngày càng cao của nền tư pháp hiện đại, nhiều hạn chế vẫn tồn tại cả về năng lực chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ và năng lực thích ứng với môi trường pháp lý đang chuyển động mạnh mẽ. Một trong những vấn đề nổi bật là sự thiếu hụt về năng lực phân tích pháp lý và tư duy độc lập trong thực hành quyền công tố. Trong tố tụng hiện đại, Kiểm sát viên không chỉ làm nhiệm vụ giám sát hình thức thủ tục mà phải chủ động phân tích, phản biện và tham gia sâu vào quá trình xác định sự thật khách quan. Cần trau dồi kỹ năng đối chất, tranh tụng tại phiên tòa, khả năng tổ chức chứng cứ, đối đáp với Luật sư, đặc biệt trong các vụ án có tính phức tạp về chứng cứ hoặc yếu tố pháp lý mới phát sinh. Bên cạnh đó, nâng cao trình độ ngoại ngữ và năng lực pháp luật quốc tế nhằm xử lý các vụ án có yếu tố nước ngoài, tội phạm mạng xuyên quốc gia, rửa tiền hay hợp tác tố tụng quốc tế. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hệ thống pháp lý của Việt Nam ngày càng tiếp xúc với các công ước quốc tế, luật mẫu và cơ chế tư pháp đa phương, đòi hỏi Kiểm sát viên am hiểu luật quốc tế hoặc có khả năng làm việc trong môi trường đa ngôn ngữ, đáp ứng yêu cầu của tiến trình hiện đại hóa Viện kiểm sát.
Bốn là, yêu cầu chuyển đổi số, số hoá hoạt động kiểm sát. Chuyển đổi số trong hoạt động kiểm sát không chỉ là yêu cầu về mặt kỹ thuật hay hiện đại hóa quy trình, mà là đòi hỏi mang tính chiến lược nhằm thay đổi căn bản phương thức tổ chức, vận hành và kiểm soát quyền lực trong lĩnh vực tư pháp. Việc số hóa không chỉ nhằm tăng tốc độ xử lý công việc hay giảm thủ tục hành chính, mà quan trọng hơn, là tạo ra một hệ sinh thái pháp lý thông minh, minh bạch và có khả năng tự giám sát. Với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, VKSND phải là một trong những chủ thể tiên phong trong kiến tạo hạ tầng pháp lý số của quốc gia. Việc phụ thuộc vào hồ sơ giấy, trao đổi thủ công và quy trình điều phối truyền thống không chỉ làm giảm hiệu quả công việc mà còn khiến hệ thống dễ bị gián đoạn, khó kiểm tra chéo, khó truy vết trách nhiệm khi xảy ra sai sót. Việc chưa có cơ sở dữ liệu tập trung, liên thông giữa các cơ quan tiến hành tố tụng (Công an, Kiểm sát, Tòa án, Thi hành án…) khiến quy trình xử lý vụ án vừa bị kéo dài, vừa tăng nguy cơ bỏ lọt hành vi vi phạm hoặc gây oan sai. Trong khi đó, các nền tư pháp hiện đại đã tiến xa trong việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo để hỗ trợ đánh giá chứng cứ, xây dựng hồ sơ điện tử liên ngành, định dạng hành vi vi phạm pháp luật qua dữ liệu lớn (big data) và sử dụng blockchain để bảo đảm tính bất biến của thông tin tố tụng.
Đối với VKSND, số hóa cần được xác định không chỉ là công cụ hỗ trợ nghiệp vụ mà còn là nền tảng để xây dựng mô hình “kiểm sát số” - nơi mọi hành vi công tố và kiểm sát được ghi nhận, lưu trữ, phân tích và cảnh báo trên nền tảng dữ liệu điện tử, giúp giảm sai sót do yếu tố chủ quan và tăng cường tính minh bạch, khách quan. Việc ứng dụng công nghệ còn tạo điều kiện để đổi mới công tác giám sát nội bộ, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của Kiểm sát viên, phát hiện dấu hiệu tiêu cực, vi phạm từ sớm, từ xa.
Năm là, sự chống phá và xuyên tạc của các thế lực thù địch đối với chức năng của Viện kiểm sát. Trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, các thế lực thù địch gia tăng các hoạt động chống phá dưới nhiều hình thức tinh vi hơn, trong đó có việc xuyên tạc vai trò và chức năng của VKSND. Mục tiêu sâu xa của các hành động này không chỉ nhằm làm giảm uy tín của hệ thống tư pháp, mà còn nhằm phủ nhận nền tảng pháp lý của chế độ, phá vỡ niềm tin của Nhân dân vào công lý và vào sự lãnh đạo của Đảng. Một trong những thủ đoạn phổ biến là lợi dụng sai sót, sơ suất mang tính cá biệt trong hoạt động tố tụng như oan sai, chậm xử lý, thiếu tranh tụng, hoặc quyết định không được Nhân dân đồng thuận cao để suy diễn thành bản chất “không minh bạch”, “có tính áp đặt” của toàn bộ hệ thống Viện kiểm sát. Trong khi đó, các vụ việc này thường do nhiều yếu tố khách quan, chủ quan đan xen, bao gồm trình độ cán bộ, điều kiện thực tiễn hoặc chưa kịp hoàn thiện thể chế, không phản ánh tính hệ thống hay sự cố ý.
Đáng lo ngại hơn là luận điệu phủ nhận chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, một trong những chức năng cốt lõi và đặc thù của Viện kiểm sát, bằng cách cho rằng điều đó “làm lệch trục quyền lực”, “can thiệp vào xét xử” hoặc “gây ảnh hưởng đến tính độc lập của Tòa án”. Họ lợi dụng sự khác biệt giữa mô hình pháp quyền XHCN ở Việt Nam và mô hình tư pháp phương Tây để cho rằng việc Viện kiểm sát có quyền kiểm sát hoạt động tố tụng là biểu hiện của sự “thiếu dân chủ”, “áp đặt chính trị lên tư pháp”. Những quan điểm này hoàn toàn sai lệch, bởi trong hệ thống chính trị Việt Nam - nơi quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có phân công, phối hợp và kiểm soát - chức năng của Viện kiểm sát là nhằm đảm bảo toàn bộ quá trình tố tụng diễn ra theo đúng quy định pháp luật, bảo vệ quyền con người, không phải cản trở hay can thiệp tùy tiện vào quyền xét xử. Hơn nữa, trong giai đoạn hiện nay, khi cải cách tư pháp được đẩy mạnh và các giá trị dân chủ, pháp quyền được nâng cao, những thông tin sai lệch về Viện kiểm sát càng dễ lan truyền trong môi trường số, đặc biệt là mạng xã hội - nơi thiếu kiểm duyệt, dễ bị thao túng bởi các thế lực phản động. Nếu không chủ động đấu tranh, minh bạch hóa hoạt động kiểm sát và chủ động truyền thông định hướng, những thông tin sai lệch này có thể tác động tiêu cực đến tâm lý xã hội, tạo sự hoài nghi trong quần chúng.
Sáu là, kỳ vọng của Nhân dân về một nền tư pháp liêm chính, minh bạch, gần dân. Niềm tin của Nhân dân đối với các cơ quan tư pháp, trong đó có VKSND là một trong những thước đo quan trọng phản ánh mức độ dân chủ, pháp quyền và hiệu lực của bộ máy nhà nước. Trong bối cảnh xã hội ngày càng phát triển, dân trí nâng cao, các phương tiện truyền thông, đặc biệt là mạng xã hội trở thành công cụ giám sát xã hội hiệu quả, thì kỳ vọng của Nhân dân vào một nền tư pháp liêm chính, minh bạch, gần dân cũng trở nên cụ thể và cao hơn bao giờ hết. Một kỳ vọng nổi bật của Nhân dân là Viện kiểm sát phải thực sự là biểu tượng của sự công minh, vô tư, khách quan trong xử lý vụ án, đặc biệt là các vụ việc liên quan đến tham nhũng, lãng phí, lạm dụng chức quyền, các vụ việc dân sự, hành chính có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người yếu thế. Nhân dân mong muốn rằng mọi quyết định truy tố, không truy tố, phê chuẩn lệnh tạm giam hay đình chỉ vụ án đều phải dựa trên căn cứ pháp luật chặt chẽ, tránh cảm tính, thiên lệch hoặc chịu tác động từ sức ép hành chính, chính trị hoặc truyền thông. Trong mắt người dân, Viện kiểm sát không được phép là “cơ quan chỉ làm việc trên giấy tờ”, mà phải hiện diện thực tế, có trách nhiệm giải trình rõ ràng trước những quyết định ảnh hưởng đến công lý và quyền con người.
Trong xã hội pháp quyền, chỉ khi cán bộ Kiểm sát trở thành “người bảo vệ công lý gần dân” chứ không chỉ là “người thực thi pháp luật”, thì niềm tin của Nhân dân mới được củng cố bền vững. Kỳ vọng đó không phải là xa vời, mà là hoàn toàn phù hợp với xu thế quản trị hiện đại, hướng đến một nền công lý điện tử, minh bạch, trách nhiệm, lấy người dân làm trung tâm.
LÂM QUỐC TUẤN