Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Viện kiểm sát nhân dân trong kỷ nguyên phát triển mới
Ngày đăng : 20:44, 31/08/2025
Bước vào kỷ nguyên phát triển mới, trước những yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta đã đề ra những chủ trương, định hướng mới về cải cách tư pháp và xây dựng ngành Kiểm sát nhân dân. Nhiệm vụ đặt ra là rất nặng nề nhưng cũng rất vẻ vang: Phải xây dựng được một nền tư pháp “chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, liêm chính, phục vụ Nhân dân”, trong đó Viện kiểm sát nhân dân giữ vai trò trọng yếu. Điều này đòi hỏi Đảng ta phải tiếp đổi mới, hoàn thiện sự lãnh đạo đối với các cơ quan tư pháp nói chung, ngành Kiểm sát nhân dân nói riêng nhằm đạt được mục tiêu đã được xác định.
1. Quan điểm đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Viện kiểm sát nhân dân
Trong tiến trình hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cải cách tư pháp giữ vai trò trụ cột bảo đảm công lý, bảo vệ quyền con người và quyền công dân. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới đã xác định rõ: Phải đổi mới sâu sắc phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp, trong đó có Viện kiểm sát nhân dân (VKSND). Kỷ nguyên chuyển đổi số, toàn cầu hóa và sự trỗi dậy mạnh mẽ của trí tuệ nhân tạo đặt ra yêu cầu cấp bách về một mô hình lãnh đạo “kiến tạo - kiểm soát”, bảo đảm tính độc lập, chuyên nghiệp, liêm chính và hiện đại của VKSND, đồng thời lan tỏa giá trị dân chủ, pháp quyền đến mọi thiết chế trong đời sống chính trị - pháp lý của đất nước.
Bối cảnh mới của kỷ nguyên phát triển đang đặt ra nhiều yêu cầu mới về sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với bộ máy nhà nước nói chung, tổ chức và hoạt động của từng thiết chế quyền lực nói riêng nhằm vừa tiếp tục nâng cao hiệu quả lãnh đạo của các tổ chức đảng, vừa đề cao vai trò của các cơ quan nhà nước, phát huy tính chủ động, sáng tạo của mỗi cơ quan nhà nước trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Đặc biệt trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp nói chung, trong đó có VKSND càng cần được tăng cường, đổi mới vừa nhằm đảm bảo định hướng chính trị nhất quán trong mọi hoạt động tư pháp theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng, vừa đảm bảo quyền độc lập của các cơ quan tư pháp, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án chỉ tuân theo pháp luật. Trong lĩnh vực tư pháp, các yêu cầu tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng có thể khái quát ở những điểm sau:
Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi mọi hoạt động tư pháp phải thượng tôn Hiến pháp và pháp luật. Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp bằng cương lĩnh, đường lối, chiến lược; nhưng phải được thể chế hóa kịp thời, đầy đủ thành các quy định pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của cơ quan tư pháp, tuyệt đối không can thiệp vi mô vào quá trình điều tra, truy tố, xét xử.
Thứ hai, tội phạm công nghệ cao, rửa tiền xuyên biên giới, xâm phạm dữ liệu cá nhân, cùng với vô số thách thức an ninh phi truyền thống khiến chức năng thực hành quyền công tố phải được số hóa và quốc tế hóa mạnh mẽ. Đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng VKSND đẩy nhanh chuyển đổi số, xây dựng cơ sở dữ liệu tố tụng thống nhất, kết nối các bộ, ngành và Interpol, Europol; đồng thời phát triển năng lực phân tích dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo để phát hiện sớm hành vi phạm tội.
Thứ ba, sự tham gia ngày càng sâu rộng của Việt Nam vào các hiệp định thương mại thế hệ mới (CPTPP, EVFTA, UKVFTA, RCEP…) yêu cầu chuẩn mực tố tụng công bằng, tranh tụng bình đẳng và minh bạch cao hơn. Phương thức lãnh đạo của Đảng phải hướng VKSND tiệm cận thông lệ quốc tế về trách nhiệm giải trình, công khai hóa thông tin và tăng cường giám sát của xã hội.
Thứ tư, trong bối cảnh phát triển mới với nhiều biến động phức tạp, khó đoán định, xuất hiện nhiều vấn đề pháp lý mới chưa có tiền lệ, xung đột lợi ích, các vi phạm pháp luật diễn biến phức tạp đòi hỏi đội ngũ cán bộ trong các cơ quan tư pháp thật sự có bản lĩnh chính trị cao, năng lực chuyên môn giỏi, kỹ năng nghề nghiệp chuyên nghiệp, đủ bản lĩnh và năng lực bảo vệ công lý, tăng cường pháp chế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của tổ chức và cá nhân. Nhu cầu cao về chất lượng đội ngũ cán bộ, đặc biệt cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu trong các cơ quan tư pháp, đòi hỏi cần có những cách tiếp cận mới trong tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, luân chuyển và sử dụng cán bộ tư pháp, xây dựng và phát triển một đội ngũ cán bộ tư pháp đủ tâm, đủ tầm trong kỷ nguyên mới của đất nước.
Trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước, sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết để thực hiện thành công các mục tiêu phát triển đất nước mà Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã xác định đến năm 2030, Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Để thực hiện vai trò lãnh đạo, dẫn dắt sự nghiệp vươn mình của dân tộc, thực hiện khát vọng hùng cường, thịnh vượng, sánh vai các cường quốc, Đảng phải tiếp tục tự đổi mới mình, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền, phát huy vai trò, sức mạnh của hệ thống chính trị của nhà nước, sức mạnh của toàn dân tộc nhằm đạt được trọn vẹn các mục tiêu đã đề ra và cần phải được tiến hành đồng bộ với cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy tổ chức hệ thống chính trị hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với yêu cầu cải cách của từng thiết chế tổ chức trong hệ thống chính trị, đặc điểm và xu hướng phát triển của từng lĩnh vực. Trong lĩnh vực tư pháp, việc tăng cường sự lãnh đạo, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng có những đặc thù cần được chú trọng, nhằm đảm bảo các nguyên tắc pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, đặc biệt là đối với Tòa án nhân dân (TAND) và VKSND.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp nói chung, đối với VKSND nói riêng cần quán triệt các quan điểm sau:
Một là, sự lãnh đạo của Đảng đối với VKSND là nguyên tắc nhất quán, xuyên suốt trong tổ chức và hoạt động của hệ thống ngành Kiểm sát, là cơ sở chính trị đảm bảo cho Viện kiểm sát thực hiện hiệu quả vai trò, trách nhiệm bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với VKSND phải bảo đảm tính thống nhất giữa sự lãnh đạo của Đảng và nguyên tắc pháp quyền trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đảng giữ vững vai trò định hướng chính trị, chiến lược phát triển và kiểm tra giám sát hoạt động của VKSND thông qua cương lĩnh, nghị quyết và công tác cán bộ, không can thiệp vào hoạt động tố tụng cụ thể, tôn trọng, đề cao quyền độc lập thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp theo Hiến pháp và pháp luật.
Ba là, chuyển trọng tâm sự lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan tư pháp (VKSND) từ chỉ đạo trực tiếp, vi mô bằng nghị quyết, chỉ thị, kết luận sang lãnh đạo bằng pháp luật, chiến lược, kiểm tra. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng trong lĩnh vực tư pháp phải được thể chế kịp thời và đầy đủ thành pháp luật, tạo cơ sở pháp luật cho Viện kiểm sát độc lập thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp theo pháp luật. Đảng không chỉ đạo hành chính, không bao biện làm thay các cơ quan tư pháp trong việc thực hiện nhiệm vụ, thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Bốn là, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng trong hệ thống VKSND, xây dựng các cấp ủy Đảng đủ năng lực, trình độ lãnh đạo thực tiễn, lựa chọn, bố trí đúng người đứng đầu VKSND, xây dựng đội ngũ cán bộ ngành Kiểm sát nhân dân “vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm” là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên trong công tác lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của VKSND.
2. Giải pháp đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Viện kiểm sát nhân dân
Để đáp ứng các yêu cầu tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng đối với VKSND trong kỷ nguyên mới, trên cơ sở các quan điểm đã được xác định, cần quan tâm các giải pháp:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện hệ thống chủ trương, đường lối của Đảng về lĩnh vực tư pháp và thể chế hóa đầy đủ vào hệ thống pháp luật, tạo khuôn khổ pháp lý vững chắc cho hoạt động của VKSND.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã được triển khai tích cực, nhiều nhiệm vụ, mục tiêu trong chiến lược cơ bản đã được thực hiện, đáp ứng kịp thời các yêu cầu của công tác nội chính trong quá trình đổi mới. Đến nay, Đảng đã có nhiều chủ trương, định hướng mới liên quan đến nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là chủ trương thực hiện cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy hệ thống chính trị đảm bảo hiệu lực, hiệu quả, tạo động lực và nguồn lực bước vào kỷ nguyên phát triển mới của đất nươc; rất cần thiết phải hoàn thiện hệ thống các chủ trương, đường lối cải cách tư pháp đáp ứng kịp thời các yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Cần nghiên cứu để tiến tới xây dựng, ban hành mới Chiến lược cải cách tư pháp giai đoạn 2025-2030, tầm nhìn 2045 nhằm tạo lập một khuôn khổ chính trị mới cho việc giải quyết nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về nền tư pháp Việt Nam trước yêu cầu, thách thức mới của sự phát triển. Chiến lược cải cách tư pháp giai đoạn này cần tập trung xác định rõ nội hàm của quyền tư pháp, hoạt động tư pháp, cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp, thống nhất nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của VKSND trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh việc tiếp tục khẳng định và quy định cụ thể thêm chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND, cần nghiên cứu tăng cường vai trò, trách nhiệm của VKSND trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự; vai trò trách nhiệm của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính; trong kiểm sát việc ban hành văn bản pháp quy và xử lý vi phạm hành chính; vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong phối hợp giữa các cơ quan có nhiệm vụ, chức năng phòng, chống tội phạm, đặc biệt là phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí…
Thứ hai, kiện toàn và nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng và đảng viên lãnh đạo chủ chốt.
Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp là nhiệm vụ hệ trọng, phức tạp, liên quan đến các vấn đề về chính sách, pháp luật, con người, cơ sở vật chất, kỹ thuật, đòi hỏi phải có quyết tâm chính trị cao. Chính vì vậy, tăng cường, bảo đảm sự lãnh đạo nhất quán, sâu sát của Đảng là yếu tố then chốt, quyết định thành công trong việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp nói chung và cải cách tư pháp trong ngành Kiểm sát nhân dân nói riêng. Cụ thể:
- Các cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng từ trung ương đến địa phương tăng cường quan tâm hoàn thiện chủ trương, chính sách về cải cách tư pháp trong từng cơ quan tư pháp, lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, kiểm tra, đôn đốc các tổ chức đảng trong ngành Kiểm sát quán triệt và thực hiện đúng, đủ, kịp thời và hiệu quả các nhiệm vụ cải cách tư pháp.
- Xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và nội dung phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với hoạt động của Viện kiểm sát và có sự chỉ đạo nhất quán, kiên quyết từ trung ương đến địa phương; cấp ủy cần định kỳ nghe báo cáo và cho ý kiến định hướng về công tác và xác định trách nhiệm tập thể và cá nhân cấp ủy viên trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác của Viện kiểm sát.
Trước hết, tập trung xây dựng tổ chức đảng VKSND tối cao theo mô hình mới đủ mạnh, thật sự là hạt nhân lãnh đạo toàn ngành. Việc xây dựng một tập thể cấp ủy theo mô hình tổ chức mới có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để đảm bảo việc lãnh đạo toàn diện mọi mặt công tác của toàn ngành Kiểm sát. Do vậy, cần đặc biệt quan tâm xây dựng một tập thể cấp ủy thật sự tiêu biểu cho phẩm chất, trí tuệ, bản lĩnh của đội ngũ cán bộ trong ngành Kiểm sát, đảm bảo đủ năng lực, uy tín lãnh đạo hoạt động triển khai thực hiện các nhiệm vụ, thẩm quyền theo quy định của pháp luật, tham mưu kịp thời cho các cơ quan lãnh đạo của Đảng những chủ trương, giải pháp xây dựng ngành Kiểm sát trong sạch, vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả, tham mưu những quyết sách, phương pháp xử lý các tình huống phức tạp trong lĩnh vực tư pháp. Các cấp có thẩm quyền của Đảng quan tâm đặc biệt xây dựng tập thể cấp ủy tại các tổ chức đảng VKSND, đặc biệt lựa chọn người đứng đầu tổ chức Đảng và chính quyền ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Nghiên cứu nâng cao vị thế chính trị của của Bí thư đảng ủy, Viện trưởng VKSND trong cơ cấu cấp ủy tại trung ương và các cấp ủy địa phương tương xứng với vị thế chính trị của Chánh án TAND và người đứng đầu các cơ quan Nội chính khác. Đây là một giải pháp quan trọng tăng cường sự lãnh đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với VKSND tối cao và sự lãnh đạo của cấp ủy địa phương đối với Viện kiểm sát địa phương...
Cùng với đó, cần nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng trong các đơn vị kiểm sát, đặc biệt là sinh hoạt chi bộ nghiệp vụ, để kịp thời giáo dục, uốn nắn tư tưởng cho cán bộ, đảng viên. Các cấp ủy trong ngành Kiểm sát phải phát huy vai trò tiên phong gương mẫu, rèn luyện “văn hóa Đảng, văn hóa lãnh đạo” như một yếu tố cốt lõi đảm bảo sự lãnh đạo hiệu quả. Nên định kỳ tổ chức các lớp bồi dưỡng bí thư cấp ủy là Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp về nghiệp vụ công tác đảng, kỹ năng lãnh đạo, nhằm giúp các đồng chí này thực hiện tốt vai trò “hai trong một” (vừa lãnh đạo chuyên môn, vừa lãnh đạo công tác đảng). Bên cạnh đó, chú trọng công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng tại các đơn vị kiểm sát như: Ủy ban Kiểm tra cấp ủy tăng cường kiểm tra dấu hiệu vi phạm của cán bộ, đảng viên trong ngành. Qua kiểm tra giám sát, kịp thời chấn chỉnh những sai lệch, nêu gương những điển hình tốt. Một môi trường nội bộ đảng trong sạch, kỷ luật nghiêm sẽ đảm bảo Đảng lãnh đạo tuyệt đối, không bị “lệch hướng” bởi những biểu hiện tiêu cực nội tại.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với ngành Kiểm sát theo hướng khoa học, dân chủ, pháp quyền, phù hợp với yêu cầu Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cụ thể:
- Phân định mối quan hệ giữa sự lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý, điều hành của chính quyền một cách khoa học.
Trên phương diện lý luận và thực tiễn, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội không bao giờ là sự lãnh đạo mang tính chủ quan, duy ý chí, mà luôn là sự lãnh đạo dựa trên các cơ sở khoa học được xác định trên cơ sở tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận… Do vậy, trong lãnh đạo, Đảng ta luôn đặt ra yêu cầu phải quán triệt nhất quán nguyên tắc “Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không làm thay Nhà nước”, “Đảng không thể buông lỏng lãnh đạo các cơ quan chính quyền, song cũng không thể bao biện công việc của chính quyền… phải chống khuynh hướng coi nhẹ vai trò và trách nhiệm của tổ chức đảng trong cơ quan nhà nước… chống quan niệm phân công máy móc, tách rời hoạt động của các cấp ủy đảng với hoạt động của cơ quan nhà nước”. Đây là cách tiếp cận khoa học để xác định mối quan hệ giữa sự lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý, điều hành của cơ quan chính quyền trong thực tiễn chính trị nước ta. Chính vì thế, sự phân định chức năng lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý, điều hành của chính quyền luôn được đặt ra như một thước đo khoa học về hiệu quả lãnh đạo của Đảng. Đối với tổ chức và hoạt động của VKSND, sự lãnh đạo và phương thức lãnh đạo của Đảng cũng tuân theo nguyên tắc này. Theo đó, sự lãnh đạo của Đảng là định hướng chính trị để VKSND chủ động triển khai các nhiệm vụ, chức năng của mình theo đúng quy định của pháp luật. Đảng lãnh đạo bằng việc đề ra các chủ trương, lãnh đạo về tổ chức, cán bộ, nhưng không can thiệp trực tiếp vào hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ của VKSND.
- Đổi mới phương thức ban hành nghị quyết lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp theo hướng “đúng và trúng”, sát thực tế.
Các nghị quyết, kết luận của Đảng cần ngắn gọn, thiết thực, tập trung vào những vấn đề trọng tâm, tránh chung chung dàn trải. Khi ban hành nghị quyết cải cách tư pháp, nên đặt ra các chỉ tiêu định lượng để dễ đánh giá kết quả (ví dụ: Phấn đấu giảm tỉ lệ án bị hủy do lỗi chủ quan dưới 01%; giảm 50% đơn giám đốc thẩm; thu hồi tài sản tham nhũng đạt trên 70% số thiệt hại…). Nghị quyết cũng nên xác định rõ trách nhiệm từng cấp ủy, tổ chức đảng liên quan (ví dụ trách nhiệm của Đảng ủy VKSND tối cao, Ban Nội chính trung ương, các tỉnh ủy) để tạo sự chủ động, tránh tình trạng chồng chéo hoặc “không biết bắt đầu từ đâu”. Bên cạnh đó, đổi mới cách phổ biến, quán triệt nghị quyết, như: Tăng cường ứng dụng công nghệ (hội nghị trực tuyến, tài liệu điện tử), tránh truyền đạt hô hào hình thức; khuyến khích tranh luận, đối thoại trong học tập nghị quyết để làm sáng tỏ những điểm khó, tạo sự thống nhất cao.
- Tăng cường tính dân chủ, công khai trong hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với ngành Kiểm sát.
Mọi quyết định nhân sự quan trọng (như bổ nhiệm, kỷ luật cán bộ) đều cần thực hiện đúng nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, có thảo luận dân chủ trong cấp ủy, Thường vụ cấp ủy. Hạn chế tối đa việc áp đặt ý chí chủ quan hoặc “quyết định của một người”. Mặt khác, phát huy vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận, đoàn thể và nhân dân đối với công tác lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực này. Ví dụ, Mặt trận Tổ quốc có thể được tạo điều kiện tham gia giám sát quy trình bổ nhiệm Kiểm sát viên cao cấp, nhân dân có quyền góp ý với đại biểu Quốc hội về báo cáo công tác của Viện trưởng VKSND tối cao… Tất cả nhằm bảo đảm các quyết sách của Đảng vừa đúng đắn, vừa hợp lòng dân.
- Ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo.
Đảng nên xây dựng hệ thống thông tin kết nối từ Ban Nội chính trung ương đến các Ban Nội chính tỉnh ủy và cơ quan tư pháp, để cập nhật nhanh tiến độ các vụ án, phục vụ lãnh đạo kịp thời. Triển khai chuyển đổi số trong quản lý hồ sơ đảng viên, hồ sơ nhân sự ngành Kiểm sát để thuận tiện trong đánh giá, bố trí cán bộ. Xây dựng cơ sở dữ liệu về khiếu nại, tố cáo liên quan hoạt động tư pháp nhằm hỗ trợ Đảng giám sát hiệu quả hơn.
Thứ tư, tăng cường sự lãnh đạo của tổ chức đảng trong sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ của các đơn vị, Viện kiểm sát các cấp bảo đảm tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm chủ trương “tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” đã nêu trong Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ VI, nhiệm kỳ khóa XII. Rà soát, sắp xếp tổ chức bộ máy của các Viện kiểm sát gắn với cải cách thủ tục hành chính - tư pháp. Chú trọng phân định rành mạch thẩm quyền quản lý hành chính của thủ trưởng cơ quan với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp của các công chức được giao thực hiện các nhiệm vụ, thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Các tổ chức đảng, cấp ủy đảng quán triệt chủ trương sắp xếp, tinh gọn bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả và xây dựng chính quyền địa phương hai cấp, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ tái cấu trúc hệ thống VKSND theo mô hình ba (03) cấp tương ứng hệ thống TAND gồm: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, VKSND cấp tỉnh và VKSND khu vực. Các cấp ủy VKSND tối cao, VKSND cấp tỉnh phối hợp chặt chẽ với tỉnh ủy, thành ủy thành phố trực thuộc trung ương xây dựng quy chế phối hợp trong lãnh đạo Viện kiểm sát khu vực, đảm bảo tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát khu vực sớm ổn định và đưa vào hoạt động đúng quy định của pháp luật.
Mô hình mới trong tổ chức và hoạt động của hệ thống VKSND đòi hỏi phải phân quyền, phân cấp mạnh cho Viện kiểm sát địa phương, cùng với đó là yêu cầu cao về kiểm soát việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Viện kiểm sát địa phương. Do vậy, các cấp ủy địa phương cần phối hợp chặt chẽ với cấp ủy VKSND tối cao tăng cường công tác kiểm tra đảng đối với hoạt động của các tổ chức đảng, cấp ủy đảng trong VKSND cấp tỉnh, VKSND khu vực, trong công tác xây dựng đảng, thực hiện các chủ trương, giải pháp cải cách tư pháp trong ngành Kiểm sát nhân dân.
Các cấp ủy đảng tăng cường vai trò thúc đẩy hoàn thành việc xây dựng và triển khai thực hiện Đề án vị trí việc làm của từng đơn vị, VKSND các cấp, gắn với việc thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 18/7/2023 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ VI (khóa XII); chú trọng kiện toàn đội ngũ công chức làm công tác pháp chế, tổ chức thi hành pháp luật theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả, phù hợp với vị trí việc làm.
Thực hiện đồng bộ, có hiệu quả Đề án về cán bộ thực hiện hoạt động tố tụng ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung các năm 2021, 2025.
Tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện và đề ra các giải pháp tiếp tục thực hiện Đề án về phòng, chống tiêu cực trong hoạt động tư pháp trong ngành Kiểm sát nhân dân nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên, công chức ngành Kiểm sát thực sự liêm chính, trong sạch, vững mạnh.
Tập trung củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, nhất là người đứng đầu ở các đơn vị, VKSND các cấp; tăng cường quản lý, giáo dục chính trị tư tưởng và đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên, công chức vững vàng về tư tưởng, chính trị, có trình độ năng lực và có đạo đức nghề nghiệp.
Thứ năm, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ ngành Kiểm sát vững mạnh toàn diện, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới, coi đây là khâu then chốt để nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng.
Để triển khai hiệu quả Chiến lược xây dựng đội ngũ cán bộ Kiểm sát đến 2030, tầm nhìn 2045, cần quan tâm những vấn đề sau:
- Tiếp tục đổi mới công tác tuyển dụng, sử dụng cán bộ: Mở rộng nguồn tuyển chọn Kiểm sát viên từ những sinh viên luật xuất sắc, Luật sư giỏi, Thẩm phán giỏi, kể cả người Việt Nam học ở nước ngoài - nhằm thu hút nhân tài cho ngành Kiểm sát. Đảng có thể nghiên cứu chủ trương cho phép thi tuyển cạnh tranh rộng rãi một số chức danh lãnh đạo trong ngành, tương tự như các kỳ thi tuyển, chọn, bổ nhiệm vào các chức vụ lãnh đạo, quản lý được triển khai thí điểm tại một số bộ ngành và địa phương vừa qua... Điều này tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, lựa chọn được người thực tài và hạn chế tiêu cực trong công tác cán bộ.
- Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng: Cần tiếp tục quan tâm đầu tư nâng cấp Trường Đại học Kiểm sát thành trung tâm đào tạo tư pháp chất lượng cao. Cập nhật chương trình đào tạo theo hướng tăng kỹ năng thực hành, kỹ năng tranh tụng, ngoại ngữ pháp lý, công nghệ thông tin cho học viên kiểm sát. Mở nhiều lớp bồi dưỡng chuyên sâu về các lĩnh vực mới (tội phạm tài chính, tội phạm mạng, sở hữu trí tuệ…), mời chuyên gia quốc tế giảng dạy, để Kiểm sát viên Việt Nam theo kịp trình độ khu vực và thế giới. Thực hiện nghiêm chủ trương luân chuyển, điều động cán bộ giữa các địa bàn, đơn vị để đào tạo toàn diện; có chính sách đãi ngộ thỏa đáng với cán bộ luân chuyển (như hỗ trợ nhà công vụ, phụ cấp).
- Xây dựng đội ngũ lãnh đạo kế cận: Việc xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo kế cận là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong chiến lược cán bộ của toàn ngành Kiểm sát nhân dân. Do vậy, công tác tuyển chọn, đào tạo, quy hoạch, luân chuyển cán bộ phải tuân thủ các quy định của Đảng về công tác cán bộ; đồng thời, bám sát đặc điểm và yêu cầu của hoạt động kiểm sát trong bối cảnh mới để lựa chọn đúng, trúng đối tượng cần đào tạo và có chương trình đào tạo thích hợp cho từng cấp độ cán bộ, từng cơ cấu cán bộ. Quan tâm tạo nguồn cán bộ trẻ, nữ, cán bộ người dân tộc có triển vọng để đưa vào quy hoạch lãnh đạo VKSND các cấp. Thực hiện đúng quy trình, tiêu chuẩn nhưng cũng mạnh dạn đề bạt những nhân tố mới dám nghĩ dám làm, không cứng nhắc “đến hẹn lại lên”. Có kế hoạch kế nhiệm rõ ràng cho các chức danh chủ chốt, tránh tình trạng bị động, trống vị trí khi có biến động nhân sự.
- Tăng cường kỷ luật, kỷ cương và công tác giáo dục chính trị tư tưởng: Tiếp tục quán triệt phương châm “ngành Kiểm sát của chúng ta là trung thành với Đảng, tận tụy với dân, công minh, chính trực, chí công vô tư”. Kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục đạo đức cách mạng và chế tài xử lý. Bất kỳ cán bộ, đảng viên kiểm sát nào vi phạm phẩm chất đạo đức, tham nhũng, tiêu cực phải xử lý nghiêm, thậm chí loại khỏi ngành, “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”. Ngược lại, những tập thể, cá nhân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, liêm chính dũng cảm đấu tranh bảo vệ pháp chế cần được biểu dương, khen thưởng kịp thời. Đảng ủy VKSND tối cao tăng cường phát động các cuộc vận động xây dựng văn hóa công vụ “vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông pháp luật, bản lĩnh và nhân văn”.
Thông qua xây dựng đội ngũ cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên”, sẽ tạo nền tảng vững chắc để Đảng lãnh đạo ngành Kiểm sát ngày càng hiệu quả, bởi lẽ khi cán bộ có tâm, có tầm thì mọi chủ trương, đường lối của Đảng sẽ được thấm nhuần và triển khai thông suốt.
Thứ sáu, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hoạt động tư pháp.
Tiếp tục củng cố, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế giữa Viện kiểm sát Việt Nam và Viện kiểm sát/Viện công tố các nước trên thế giới trong lĩnh vực tư pháp là yêu cầu, xu hướng phát triển tất yếu trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, nhằm đấu tranh, phòng chống hiệu quả các tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia; đồng thời, tham khảo những kinh nghiệm tốt về cách thức tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát/Viện công tố của một số nước có nền tư pháp hiện đại, tiến bộ.
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp trong hợp tác quốc tế, cần nghiên cứu hoàn thiện các chủ trương, định hướng về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp, vừa đảm bảo nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, vừa đảm bảo tính chủ động, sáng tạo của các cơ quan tư pháp trong hợp tác quốc tế về tư pháp, bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền con người, quyền công dân của công dân Việt Nam trong các quan hệ quốc tế, góp phần thực hiện hiệu quả đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Hoạt động hợp tác quốc tế về tư pháp là một hoạt động đặc thù và nhạy cảm, gắn với chính trị, dân chủ, pháp quyền và chủ quyền quốc gia cần phải được định hướng rõ ràng về quan điểm, đường lối, đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng. Do vậy, Đảng cần có nghị quyết chuyên đề mới về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp, tạo cơ sở chính trị để các cơ quan tư pháp như TAND tối cao, VKSND tối cao xây dựng chương trình, kế hoạch và định hướng hợp tác quốc tế phù hợp với đặc điểm của mỗi ngành.
Để tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp, với vai trò cơ quan đầu mối về tương trợ tư pháp hình sự, VKSND tối cao cần tiếp tục chủ động phối hợp với các nước tổ chức thực hiện tốt các điều ước, thỏa thuận quốc tế đã gia nhập, ký kết; đẩy mạnh việc đàm phán, ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự. Tổ chức nghiên cứu, xây dựng và triển khai thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế về tư pháp theo chức năng, nhiệm vụ được giao, trọng tâm là hợp tác trong lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng cán bộ đáp ứng yêu cầu hội nhập về tư pháp quốc tế và hoạt động phòng, chống tội phạm có yếu tố nước ngoài, khủng bố quốc tế. Đề cao tinh thần cảnh giác phòng, chống âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trong hoạt động hợp tác quốc tế về tư pháp; theo đó:
(1) Tạo điều kiện và cơ chế thuận lợi để VKSND tối cao chủ động đàm phán, ký thỏa thuận quốc tế song phương, đa phương với Viện kiểm sát/Viện công tố các nước có quan hệ truyền thống, các nước có mô hình tư pháp hiện đại, các nước có nền công tố mạnh, các cơ sở đào tạo cán bộ tư pháp và các tổ chức quốc tế có uy tín trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp; triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các chỉ thị của Đảng về hợp tác với nước ngoài, nhất là Chỉ thị số 25-CT/TW của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030, nhằm nâng cao vị thế của ngành Kiểm sát Việt Nam trong khu vực và quốc tế.
(2) Triển khai thực hiện các giải pháp “tăng cường sự phối hợp chung trong hoạt động phòng, chống tội phạm có yếu tố nước ngoài”, nhất là các tội phạm phi truyền thống phát sinh trong bối cảnh hội nhập như: Tội phạm sử dụng công nghệ cao; tội phạm về tham nhũng, kinh tế; tội phạm liên quan trong lĩnh vực ngân hàng...
(3) Tiếp tục tìm kiếm các đối tác nước ngoài để thực hiện các chương trình, dự án quốc tế mới có hiệu quả phù hợp hỗ trợ hoàn thiện thể chế, tăng cường năng lực chuyên môn cho cán bộ, Kiểm sát viên ngành Kiểm sát nhân dân; trước mắt tận dụng có hiệu quả các nguồn lực của các chương trình, dự án quốc tế để phục vụ công tác hoàn thiện thể chế, xây dựng ngành.
Lê Minh Thông