Đảo nợ có phải là tội phạm không ?
Ngày đăng : 16:37, 21/08/2025
1. Quy định của pháp luật về hành vi đảo nợ, các hình thức đảo nợ và tính chất của hành vi đảo nợ
Khoản 8 Điều 9 Nghị định số 94/2018/NĐ-CP ngày 30/6/2018 của Chính phủ về nghiệp vụ quản lý nợ công quy định: “Đảo nợ là việc thực hiện huy động vốn vay mới để trả trước một phần hoặc toàn bộ khoản nợ cũ”. Theo đó, có thể hiểu đảo nợ là cách chuyển một khoản vay cũ đến hạn trả nợ tại tổ chức tín dụng cho vay thành một khoản vay mới, khoản vay mới này có thể vay tại chính tổ chức tín dụng đó hoặc từ tổ chức tín dụng khác, nguồn vay khác; bản chất của hành vi đảo nợ là cách biến một khoản nợ cũ thành khoản nợ mới (gốc và lãi), nhằm kéo dài thời hạn trả nợ, hoặc là cách để các tổ chức tín dụng biến một khoản nợ xấu thành nợ tốt, che giấu nợ xấu tại tổ chức tín dụng.
Thực tế giải quyết các vụ án trong lĩnh vực ngân hàng cho thấy, trong nhiều trường hợp, do khách hàng mất khả năng trả nợ đến hạn, nên phải tìm cách vay một khoản vay mới (thường là trái quy định pháp luật) để tất toán khoản vay cũ, kéo dài thời hạn thanh toán. Đây là hoạt động tương đối phổ biến trong hoạt động ngân hàng; nhiều khách hàng, ngân hàng hoặc có sự phối hợp giữa khách hàng và ngân hàng đã dùng cách này để che giấu nợ xấu, cơ cấu lại thời hạn trả nợ; nhiều trường hợp ngân hàng yêu cầu khách hàng tìm cách trả hết khoản nợ cũ, sau đó cho vay lại khoản mới hoặc cho vay mới để trả vay cũ… cho dư nợ quá hạn tại ngân hàng.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến đảo nợ, như: (i) Đối với nhóm khách hàng là rủi ro do biến động thị trường tài chính ảnh hưởng đến việc huy động, sử dụng vốn dẫn đến phải đảo nợ; do sản xuất kinh doanh không hiệu quả, sử dụng vốn vay không đúng mục đích (để trả nợ cá nhân, đầu cơ bất động sản, cho vay lãi cao…), nên không thu hồi được vốn, mất khả năng thanh toán nợ đến hạn; đáo hạn khoản vay cũ nhằm che giấu hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến khoản vay này; do những nguyên nhân khách quan khác như bị thiên tai, biến động, khủng hoảng thị trường kinh tế, hàng hóa thiếu đầu ra, đọng hàng, thiếu vốn; hoặc vì những mục đích, động cơ trái pháp luật khác…; (ii) Đối với tổ chức tín dụng là cho khách hàng vay mới để trả nợ cũ tại ngân hàng khác rồi chuyển khách hàng về tổ chức tín dụng của mình; cho vay để trả nợ lãi tại chính tổ chức tín dụng đó và sau đó gộp gốc, lãi thành dư nợ mới; do khách hàng có tình hình tài chính tốt cho vay dài hạn trả nợ khoản vay ngắn hạn, cơ cấu lại thời hạn của khoản vay; cho vay đảo nợ để che giấu nợ xấu của khách hàng, che giấu sai phạm cho vay…
Qua giải quyết các vụ án trong lĩnh vực ngân hàng cho thấy, để thực hiện đảo nợ các đối tượng là khách hàng, trong nhiều trường hợp có sự phối hợp với cán bộ ngân hàng, thường sử dụng một số phương pháp, thủ đoạn sau:
(i) Thành lập thêm pháp nhân mới hoặc mượn pháp nhân để đứng tên ký kết các hợp đồng mua bán hàng hóa khống, lập các chứng từ mua bán khống... để hợp thức hóa hồ sơ vay; khi được tổ chức tín dụng giải ngân thì sử dụng để đảo nợ cho khoản vay cũ tại tổ chức tín dụng.
(ii) Nâng khống, lập khống giá trị tài sản cầm cố, thế chấp đảm bảo cho khoản vay cũ, mới, sau đó sử dụng tiền vay để đảo nợ tại tổ chức tín dụng.
(iii) Khách hàng với sự giúp sức của nhân viên tổ chức tín dụng lập báo cáo tài chính nâng khống doanh thu, thổi phồng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo doanh số ảo, tạo lưu lượng lớn tiền luân chuyển trong tài khoản, tăng hạn mức tín dụng cho vay (đã bao gồm dư nợ cũ) trái quy định, nâng xếp hạng doanh nghiệp lên hạng A, AA, A+ trái quy định để có thể cho vay đảo nợ không cần tài sản bảo đảm hoặc với tài sản bảo đảm giá trị thấp.
(iv) Dùng nguồn vốn khác (vay bên ngoài, tín dụng đen, vay ngân hàng khác) để trả khoản nợ cũ, sau đó tổ chức tín dụng cho vay mới, dùng khoản tiền này trả lại cho bên ngoài.
(v) Lập khống hợp đồng xuất khẩu hàng hóa, sử dụng các hóa đơn chứng từ khống bảo đảm cho khoản vay; sử dụng tiền được tổ chức tín dụng giải ngân để trả khoản vay cũ.
Đảo nợ diễn ra khá phổ biến mặc dù Ngân hàng Nhà nước nghiêm cấm hành vi đảo nợ trái quy định pháp luật, vì ngoài vi phạm quy định nhà nước về quản lý hoạt động tiền tệ, ngân hàng, còn gây thất thoát tài sản, làm mất hiệu lực quản lý của Nhà nước, gây rối loạn thị trường tiền tệ. Trong Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 01/3/2011, Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 15/01/2014 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ và đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn; Công văn số 3739/NHNN-CSTT ngày 20/6/2012 về việc thực hiện các giải pháp về tiền tệ, tín dụng theo chủ trương của Chính phủ tại Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 03/01/2012, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã yêu cầu các ngân hàng không được thực hiện các nghiệp vụ nhằm che giấu nợ xấu như cho vay để trả nợ cũ, cho vay để thanh toán các khoản nợ vay không có hiệu quả của các ngân hàng khác (đảo nợ). Điều 9 Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, được ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 (Quyết định 1627/2001); Điều 8 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Thông tư số 39/2016) quy định tổ chức tín dụng không được cho vay các nhu cầu vốn để đảo nợ tại tổ chức tín dụng cho vay hoặc tổ chức tín dụng khác, trừ trường hợp vay để thanh toán lãi tiền vay phát sinh trong quá trình thi công xây dựng công trình hoặc khoản vay phục vụ hoạt động kinh doanh có thời hạn không vượt quá thời hạn cho vay còn lại của khoản vay cũ và chưa thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ. Xử phạt hành chính hành vi đảo nợ trái quy định pháp luật được quy định tại điểm c khoản 4 Điều 14 Nghị định số 202/2004/NĐ-CP ngày 10/12/2004 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng, quy định phạt tiền đến 09 triệu đồng hành vi đảo nợ không theo quy định của pháp luật; Nghị định số 96/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014 của Chính Phủ (thay thế Nghị định số 202/2004/NĐ-CP ngày 10/12/2004), Nghị định số 88/2019/NĐ-CP ngày 14/11/2019 (thay thế Nghị định số 96/2014/NĐ-CP), quy định phạt tiền đến 50 triệu đồng đối với tổ chức tín dụng nếu cấp tín dụng không đủ điều kiện theo quy định của pháp luật, cho nhu cầu vốn không được cho vay hoặc khi chưa được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận; biện pháp khắc phục hậu quả là buộc chấp hành đúng quy định của pháp luật về cho vay, buộc thu hồi nợ.
Về quy định cho phép đảo nợ: Pháp luật cho phép cho vay đảo nợ trong lĩnh vực công, quản lý vay, trả nợ nước ngoài của Chính phủ, như quy định tại Nghị định số 134/2005/NĐ-CP ngày 01/11/2005 của Chính phủ, quy định tại khoản 23 Điều 3 Luật quản lý nợ công, cho đảo nợ trong trường hợp: “Cơ cấu lại danh mục nợ là việc thực hiện nghiệp vụ nhằm cơ cấu lại từng khoản nợ trong danh mục nợ, bao gồm đảo nợ, chuyển đổi, mua bán lại nợ, hoán đổi đồng tiền, lãi suất và các nghiệp vụ khác để giảm thiểu nghĩa vụ trả nợ, hạn chế rủi ro”. Khoản 4 Điều 54 Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 quy định: “Việc đảo nợ được thực hiện theo quy định của Chính phủ”; các luật tổ chức tín dụng sau này không quy định cụ thể về đảo nợ; vấn đề đảo nợ thường được quy định trong các quyết định, thông tư do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành, như trong Quyết định số 1627/2001 và các quyết định, thông tư sửa đổi, bổ sung quy định: “Việc đảo nợ, các tổ chức tín dụng thực hiện theo quy định riêng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”; Thông tư số 39/2016 quy định một số trường hợp cụ thể được đảo nợ. Như vậy, pháp luật không cấm hành vi đảo nợ, tuy nhiên phải thực hiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
2. Thực trạng xử lý các vụ án liên quan đến hành vi đảo nợ
Trên cơ sở nghiên cứu, tổng hợp các bản án có hiệu lực pháp luật do Tòa án nhân dân các cấp xét xử liên quan đến hành vi đảo nợ tại ngân hàng cả trong lĩnh vực hình sự và dân sự thời gian qua, chúng tôi nhận thấy có những quan điểm, đánh giá khác nhau, trong đó có ba quan điểm chính như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, hành vi đảo nợ không phải là tội phạm, mà chỉ vi phạm hành chính; giao dịch dân sự được giải quyết theo hợp đồng tín dụng hai bên đã ký kết; việc nâng khống tài sản bảo đảm làm hợp đồng thế chấp tài sản bị vô hiệu.
Quan điểm thứ hai cho rằng, hành vi đảo nợ có sự thông đồng giữa khách hàng và cán bộ ngân hàng là phạm tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng (Điều 179 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999, Điều 206 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (gọi tắt là BLHS năm 2015)); cán bộ ngân hàng có vai trò, trách nhiệm chính do quyết định việc cho vay và đảo nợ; nhóm khách hàng là đồng phạm.
Quan điểm thứ ba cho rằng, hành vi đảo nợ không có sự thông đồng giữa khách hàng và cán bộ ngân hàng là tội phạm. Nhóm khách hàng phạm vào Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139 BLHS năm 1999, Điều 174 BLHS năm 2015); nhóm cán bộ ngân hàng vi phạm quy định về cho vay phạm tội vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng (Điều 179 BLHS năm 1999, Điều 206 BLHS năm 2015).
Mặt khác, về quan điểm coi hành vi đảo nợ là tội phạm cũng có những ý kiến khác nhau, như: Đảo nợ phạm vào tội gì; thời điểm tội phạm hoàn thành; số tiền bị chiếm đoạt; hậu quả, thiệt hại do tội phạm gây ra; trách nhiệm bồi thường; vai trò đồng phạm; trách nhiệm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án; vấn đề thu giữ, xử lý vật chứng, khắc phục hậu quả do tội phạm gây ra. Dưới đây là những ví dụ qua một số bản án cụ thể để minh họa:
- Về hành vi gian dối lập hồ sơ khống, chứng từ khống, nâng khống giá trị tài sản bảo đảm để vay tiền, vay tiền để đảo nợ là phạm tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng (Điều 179 BLHS năm 1999, Điều 206 BLHS năm 2015); cán bộ ngân hàng có vai trò, trách nhiệm chính, nhóm khách hàng là đồng phạm:
Ví dụ: Vụ Phạm Công Danh và đồng phạm, Hội đồng xét xử nhận định: “Hành vi gian dối lập hồ sơ, chứng từ khống, nâng khống giá trị tài sản bảo đảm để vay tiền đảo nợ tại ngân hàng cho vay và trả cho các tổ chức tín dụng khác, có sự thông đồng, giúp sức của cán bộ ngân hàng không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà phạm tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng, do hành vi vay và cho vay là trái pháp luật. Trong vụ án này, vai trò, trách nhiệm chính là các bị cáo là cán bộ ngân hàng, các bị cáo là đối tượng khách hàng doanh nghiệp có vai trò đồng phạm giúp sức cho các bị cáo là cán bộ ngân hàng thực hiện hành vi vi phạm quy định về cho vay”. Tòa án xác định thời điểm tội phạm hoàn thành vào thời điểm ngân hàng giải ngân cho vay; hậu quả hành vi vi phạm quy định cho vay xác định bằng dư nợ vào thời điểm khởi tố (trừ đi giá trị tài sản bảo đảm định giá vào thời điểm khởi tố); chỉ các bị cáo trong nhóm khách hàng doanh nghiệp và cá nhân sử dụng tiền vay mới bị trách nhiệm liên đới bồi thường, mà không phải là tất cả các bị cáo đứng tên vay; không xác định trách nhiệm bồi thường đối với các bị cáo thuộc nhóm cán bộ ngân hàng.
- Về hành vi lập chứng từ khống, nâng khống tài sản bảo đảm vay vốn ngân ngân hàng, có sự thông đồng với cán bộ ngân hàng, sau mất khả năng trả nợ, là phạm tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng:
Ví dụ: Vụ án Nguyễn Minh Chuyển và đồng phạm, bản án xác định: Nhóm các bị cáo là khách hàng doanh nghiệp đã có phát sinh quan hệ tín dụng với Ngân hàng VCB Chi nhánh Tây Đô, thành phố Cần Thơ (VCB Tây Đô); do không thanh toán được nợ đến hạn, sợ phát sinh nợ xấu, ảnh hưởng đến việc xếp hạng tín dụng của VCB Tây Đô, đã thông đồng, thỏa thuận với các bị cáo là lãnh đạo VCB Tây Đô: Nhóm khách hàng sẽ lập thêm các công ty mới hoặc sử dụng công ty trong nhóm lập khống hồ sơ vay, lập khống báo cáo tài chính, phương án sản xuất kinh doanh, lập khống hợp đồng mua bán…; đối với nhóm các bị cáo tại VCB Tây Đô thì chấm điểm xếp hạng cao cho khách hàng, không thẩm định hồ sơ vay, tài sản thế chấp đúng quy định để đủ điều kiện vay vốn, sử dụng số tiền vay trả nợ cho hợp đồng cũ và sử dụng một phần cho doanh nghiệp duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh. Tính đến thời điểm 01/6/2015 (thời điểm khởi tố vụ án), nhóm khách hàng còn dư nợ gốc và lãi quá hạn với số tiền hơn 2.609 tỉ đồng (làm tròn số liệu); trong đó sử dụng 2.418 tỉ đồng trả cho các khoản vay cũ (đảo nợ), rút ra 279 tỉ đồng sử dụng cho các sản xuất kinh doanh, đến nay không thu hồi được.
Do nhóm khách hàng sử dụng số tiền 2.418 tỉ đồng đảo nợ tại VCB Tây Đô, nên VCB không bị thiệt hại số tiền này nên hành vi này không vi phạm pháp luật hình sự. Đây là quan hệ kinh doanh thương mại, trách nhiệm thanh toán nợ là của các doanh nghiệp, VCB Tây Đô được quyền khởi kiện các công ty và cá nhân có liên quan thanh toán nợ bằng vụ án kinh doanh thương mại theo thủ tục tố tụng dân sự. Đồng thời, tài sản thế chấp để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán nợ cho các hợp đồng tín dụng đã được ký kết sẽ được xem xét giải quyết khi giải quyết yêu cầu khởi kiện của VCB Tây Đô.
Đối với số tiền 279 tỉ đồng cho vay sai quy định, không có khả năng trả nợ, nên xác định là thiệt hại do hành vi vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng gây ra thiệt hại hình sự cho VCB trong vụ án này. Do các hợp đồng tín dụng được giao kết giữa các doanh nghiệp với VCB Tây Đô trên cơ sở tự nguyện, không vi phạm điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, nên không tính lãi theo hợp đồng do hợp đồng vô hiệu. Trách nhiệm bồi thường thuộc về các bị cáo nhóm doanh nghiệp bởi lẽ các bị cáo là người chỉ đạo sử dụng số tiền này theo ý thức chủ quan của mình. Hành vi của các bị cáo thuộc nhóm cán bộ ngân hàng và nhóm khách hàng doanh nghiệp đã phạm vào Tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, quy định tại khoản 3 Điều 179 BLHS năm 1999.
Trong vụ án này, Hội đồng xét xử hai cấp đều thống nhất nhận định, hành vi vay, cho vay để đảo nợ vay tại chính ngân hàng cho vay không phải là tội phạm; không gây thiệt hại cho ngân hàng; thuộc quan hệ kinh doanh thương mại. Đối với các khoản vay trái pháp luật, không có khả năng trả nợ, có sự thông đồng giữa cán bộ ngân hàng và khách hàng, được xác định là thiệt hại do hành vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng gây ra; các bị cáo nhóm cán bộ ngân hàng có vai trò, trách nhiệm chính, các bị cáo nhóm khách hàng doanh nghiệp có vai trò đồng phạm giúp sức.
- Về hành vi lập chứng từ khống để vay đảo nợ là phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (nhóm khách hàng):
Ví dụ 1: Vụ án Ngô Văn Hanh và đồng phạm: Trong vụ án này, cán bộ ngân hàng không có hành vi giúp sức hợp thức hóa hồ sơ vay đảo nợ cho khách hàng, nhưng vi phạm các quy định về kiểm tra, thẩm định hồ sơ vay. Bản án nêu: Các bị cáo là khách hàng có hành vi gian dối lập chứng từ khống làm tài sản bảo đảm cho khoản vay, trong đó sử dụng phần tiền giải ngân để đảo nợ tại ngân hàng cho vay, là phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; số tiền lừa đảo chiếm đoạt được là số tiền cho vay bằng chứng từ giả; trách nhiệm bồi thường theo dư nợ tại thời điểm khởi tố. Đối với cán bộ ngân hàng liên quan bị xử lý trách nhiệm hình sự về Tội vi phạm quy định về cho vay, do không kiểm tra tài sản bảo đảm, không đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định nên không phát hiện ra tài sản bảo đảm bị lập khống; tội phạm hoàn thành vào thời điểm giải ngân cho vay, hậu quả xác định bằng số tiền cho vay trái quy định vào thời điểm giải ngân. Tòa án không xem xét mục đích vay của nhóm khách hàng là để đảo nợ tại chính ngân hàng cho vay (số tiền vay không ra khỏi ngân hàng, quay lại thanh toán cho dư nợ của họ tại chính ngân cho vay, chuyển dư nợ sang khoản vay mới, tài sản của ngân hàng cho vay không bị thay đổi), mà chỉ căn cứ hành vi gian dối lập hồ sơ vay khống để xác định hành vi là lừa đảo để chiếm đoạt số tiền đảo nợ.
Ngoài ra, một số ý kiến cho rằng, đảo nợ là vi phạm hành chính, bởi việc ngân hàng ký hợp đồng cho vay là để khách hàng vay đảo nợ, vi phạm quy định tại Điều 3, Điều 9 Quy chế cho vay ban hành kèm theo Quyết định số 1627 ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (nhu cầu không được vay vốn); theo quy định tại điểm c khoản 4 Điều 14 Nghị định số 202/2004 là phải bị xử lý hành chính. Khi ký hợp đồng tín dụng giải ngân cho vay để đảo nợ, ngân hàng và khách hàng đã nâng khống tài sản bảo đảm, nên hợp đồng thế chấp tài sản bảo đảm là hợp đồng vô hiệu (Điều 129 BLDS năm 2005). Việc các giao dịch bảo đảm bị vô hiệu không làm hợp đồng tín dụng vô hiệu theo quy định tại Điều 15 Nghị định số 163/2006 về giao dịch bảo đảm. Tòa án tuyên bố hợp đồng thế chấp tài sản bảo đảm vô hiệu.
* Một số bình luận:
Ngân hàng là tổ chức quyết định cho vay đối với khách hàng. Trước khi chính thức ký kết hợp đồng tín dụng với khách hàng, ngân hàng có trách nhiệm kiểm tra, thẩm định hồ sơ vay, đánh giá năng lực tài chính khả năng trả nợ đến hạn của khách hàng, xác định dư nợ đến hạn của khách hàng tại các tổ chức tín dụng, có trách nhiệm kiểm tra, sử dụng vốn vay nhưng vẫn phối hợp với khách hàng hợp thức hồ sơ vay không đúng quy định, sử dụng tiền cho vay để tất toán cho các khoản vay cũ (gọi là đảo nợ) là vi phạm quy định về cho vay. Trong một số vụ án, cán bộ ngân hàng nhận thức đầy đủ mục đích, hành vi của khách hàng, đã phối hợp chặt chẽ cùng khách hàng thực hiện các hành vi vi phạm quy định về cho vay như lập khống tài liệu, hồ sơ chứng từ, lập khống biên bản kiểm tra tài sản bảo đảm, kiểm tra, giám sát sử dụng vốn vay... để hoàn thiện hồ sơ tín dụng, giải ngân cho vay, đảo nợ.
Mục đích vay là để đảo nợ tại chính tổ chức tín dụng cho vay nên khách hàng không lừa đảo ngân hàng, không chiếm đoạt tài sản của ngân hàng, tiền được giải ngân đã quay lại thanh toán cho chính ngân hàng, nên ngân hàng không bị thiệt hại, do đó các bị cáo không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Như vậy, căn cứ vào tính chất hành vi đảo nợ có thể thấy bản chất hành vi đảo nợ tại chính tổ chức tín dụng cho vay không phải là để chiếm đoạt tài sản của tổ chức tín dụng đó, nếu đảo nợ không đúng quy định pháp luật là vi phạm quy định về cho vay, có thể bị xử lý do vi phạm hành chính.
Để xác định đúng bản chất hành vi đảo nợ, xác định đảo nợ có phải là tội phạm hay không phải dựa trên nhiều yếu tố, trong đó phải xác định: Mục đích của đảo nợ; đảo nợ cho khoản vay nào, khoản đó có trái quy định về cho vay không; tài sản bảo đảm có giá trị bao nhiêu; tình hình tài chính của doanh nghiệp; có hay không có hành vi thông đồng vi phạm quy định cho vay của cán bộ ngân hàng… Nếu đảo nợ cho khoản vay cũ mà khoản vay này không trái quy định về cho vay (kể cả đã mất khả năng trả nợ), số tiền giải ngân cho vay đã quay trở lại ngân hàng sử dụng để đảo nợ cho khoản vay cũ, biến khoản vay thành khoản vay mới, nên không gây thiệt hại cho ngân hàng; cần xác định hành vi này không phải là tội phạm.
Nếu đảo nợ cho khoản vay cũ là khoản vay trái quy định về cho vay, không có yếu tố chiếm đoạt, bị mất khả năng trả nợ, có vai trò giúp sức của cán bộ ngân hàng, thì các bị cáo không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà phạm tội vi phạm quy định về cho vay, vi phạm khác liên quan đến hoạt động ngân hàng, theo quy định tại Điều 179 BLHS năm 1999 (Điều 206 BLHS năm 2015); nhóm cán bộ ngân hàng có vai trò, trách nhiệm chính, nhóm khách hàng là đồng phạm; hậu quả của hành vi phạm tội là dư nợ tại ngân hàng (có thể đối trừ giá trị tài sản bảo đảm).
Nếu đảo nợ cho khoản vay trái quy định pháp luật, hồ sơ khoản vay cũ được lập gian dối, có mục đích chiếm đoạt; đảo nợ là để che giấu vi phạm trước đó, thì phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của ngân hàng; số tiền chiếm đoạt xác định từ khoản vay cũ. Do đó, nếu chỉ dựa trên sự gian dối khi lập hồ sơ vay đảo nợ để quy kết hành vi là lừa đảo chiếm đoạt tài sản của ngân hàng là không đảm bảo yếu tố cấu thành tội phạm; làm hạn chế khả năng thu hồi tài sản cho ngân hàng do hợp đồng tín dụng bị vô hiệu, do không thực hiện được các điều khoản thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
Nguyễn Như Hùng - Cao Anh Đức