Audio: Đổi mới tổ chức và hoạt động Cơ quan điều tra VKSND tối cao đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn mới
Ngày đăng : 08:30, 29/07/2025
Với mục tiêu kiểm soát quyền lực tư pháp, đảm bảo hệ thống tư pháp và hoạt động tư pháp trong sạch thì tất yếu phải bảo đảm cho Viện kiểm sát nhân dân có công cụ sắc bén, hữu hiệu để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ. Do vậy, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao là yêu cầu khách quan và cần thiết trong quá trình cải cách tư pháp ở nước ta, nhằm đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
1. Kết quả công tác của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
1.1. Kết quả đạt được
Kết quả hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao đã góp phần quan trọng bảo đảm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của VKSND. Trong đó, việc khởi tố, điều tra và xử lý nghiêm minh các hành vi phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp, tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp, góp phần cùng với toàn ngành Kiểm sát nhân dân bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, bảo đảm sự trong sạch, vững mạnh của các cơ quan tư pháp; việc Viện kiểm sát các cấp phát hiện những vi phạm xảy ra trong hoạt động tư pháp đã kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu cơ quan tư pháp thực hiện; đặc biệt, trong đó, đối với những vụ việc có vi phạm nghiêm trọng đã chuyển đến Cơ quan điều tra VKSND tối cao tiến hành kiểm tra, xác minh, khởi tố, xử lý bằng hình sự, đã bảo đảm tính răn đe, nghiêm minh của pháp luật.
Thời gian qua, Cơ quan điều tra VKSND tối cao đã ban hành nhiều kiến nghị gửi đến các cơ quan để xảy ra vi phạm, yêu cầu có biện pháp khắc phục và phòng ngừa vi phạm, tội phạm. Các kiến nghị đều được các cơ quan liên quan nghiêm túc tiếp thu và khắc phục. Bên cạnh đó, Cơ quan điều tra VKSND tối cao đã tham mưu với lãnh đạo VKSND tối cao ký ban hành 03 kiến nghị tổng hợp (năm 2018 - 2021) gửi Bộ trưởng Bộ Công an, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Tư pháp chỉ đạo, quán triệt khắc phục và phòng ngừa chung và thông báo rút kinh nghiệm trong ngành Kiểm sát nhân dân.
Trong những năm qua, công tác phát hiện và xử lý tham nhũng được chỉ đạo đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả, tạo bước đột phá, khẳng định quyết tâm của Đảng, Nhà nước trong chống tham nhũng, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai, không chịu sức ép của bất kỳ cá nhân nào. Cơ quan điều tra VKSND tối cao là công cụ hữu hiệu để thực hiện phòng, chống tham nhũng ngay trong các cơ quan thực hiện chức năng phòng, chống tham nhũng; đã phát hiện, điều tra nhiều vụ án về tội phạm tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp.
Bên cạnh đó, lãnh đạo Cơ quan điều tra VKSND tối cao có nhiều đổi mới trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành; duy trì giao ban định kỳ, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc tiến độ công việc hàng tuần, nâng cao ý thức trách nhiệm công vụ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương và đạo đức nghề nghiệp, bảo đảm chỉ tiêu của Quốc hội và Chỉ thị của Viện trưởng VKSND tối cao; không để xảy ra oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm; điều tra, xử lý có trọng tâm, trọng điểm, tập trung những lĩnh vực có nhiều vi phạm tội phạm, gây bức xúc trong dư luận.
Cơ quan điều tra VKSND tối cao đã chú trọng tổng kết, nghiên cứu xây dựng các đề án, đề tài để nâng cao chất lượng tổ chức và hoạt động như: Đề án: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra VKSND tối cao”, Đề án: “Thực trạng, giải pháp đấu tranh phòng, chống tiêu cực trong hoạt động tư pháp của VKSND” trong toàn ngành, Đề án: “Tăng cường năng lực Cơ quan điều tra VKSND tối cao”, Đề tài khoa học cấp bộ: “Thẩm quyền của Cơ quan điều tra VKSND tối cao theo Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015 và những giải pháp tổ chức thực hiện”...
Ngoài ra, Cơ quan điều tra VKSND tối cao đã hoàn thiện thể chế, tạo khung pháp lý cho hoạt động điều tra, đã tham mưu, trình lãnh đạo VKSND tối cao ký ban hành 25 quy chế, quy định; lãnh đạo Cơ quan điều tra VKSND tối cao đã quan tâm chỉ đạo tăng cường đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện nhiệm vụ. Từng bước trang bị thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ hiện đại, đào tạo chuyên gia về dữ liệu điện tử; tổ chức các lớp tập huấn, trao đổi kinh nghiệm liên quan đến thu thập, bảo quản, khai thác, phục hồi dữ liệu điện tử cho Điều tra viên, Cán bộ điều tra… Đã điều tra khám phá được nhiều vụ án, vụ việc thông qua việc thu thập, khai thác từ dữ liệu điện tử (vụ chiếm đoạt tiền ảo xảy ra tại C02 Bộ Công an; vụ nhận hối lộ, môi giới hối lộ, đưa hối lộ xảy ra tại TACC2…). Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng Điều tra viên, Cán bộ điều tra được chú trọng, đã cử nhiều lượt công chức của Cơ quan điều tra VKSND tối cao tham gia các lớp đào tạo như lớp tập huấn, đào tạo trong nước và quốc tế(1).
1.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
Tuy đã được củng cố, tăng cường nhưng so với yêu cầu, nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm thuộc thẩm quyền, thì chất lượng, số lượng các vụ việc được Cơ quan điều tra VKSND tối cao phát hiện, điều tra, xử lý còn hạn chế, mức độ. Tổ chức bộ máy tuy được kiện toàn nhưng hoạt động chưa hiệu quả, mới có các phòng điều tra tố tụng, chưa có các phòng kỹ thuật nghiệp vụ; biên chế được tăng cường nhưng chất lượng công chức chưa đồng đều, chưa chuyên nghiệp, hiệu quả, nhất là năng lực, kinh nghiệm, kỹ năng phát hiện điều tra còn hạn chế. Bên cạnh đó, công tác phối hợp, hỗ trợ của Viện kiểm sát các cấp đối với Cơ quan điều tra VKSND tối cao còn hạn chế, chưa có cơ chế hữu hiệu để cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời và hỗ trợ điều tra...
Những tồn tại, hạn chế trên xuất phát từ một số nguyên nhân sau:
Một là, khối lượng công việc ngày càng lớn, đơn thư gửi đến ngày càng tăng nhưng phần lớn là khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp, không thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra VKSND tối cao. Theo Quy chế tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp (ban hành kèm theo Quyết định số 222/QĐ-VKSTC ngày 22/6/2023 của VKSND tối cao) thì Cơ quan điều tra VKSND tối cao phải mất khá nhiều thời gian, nhân lực cho hoạt động phân loại, xử lý đơn thư này. Đa số các vụ việc do Cơ quan điều tra VKSND tối cao thụ lý có liên quan đến kết quả giải quyết của các cơ quan tố tụng khác như xác định hậu quả, tính chất, mức độ của hành vi vi phạm thì phải căn cứ kết quả xét xử của các cấp Tòa án, hoặc công tác kê biên, định giá tài sản…
Hai là, chủ thể tội phạm xảy ra trong hoạt động tư pháp thường có trình độ cao về pháp luật và thủ đoạn che giấu tinh vi. Do vậy đấu tranh với nhóm tội phạm này rất khó khăn, vụ việc thường kéo dài; việc thu thập hồ sơ, tài liệu để chứng minh vi phạm của đối tượng cũng gặp nhiều khó khăn.
Ba là, nhiều vụ việc phải giám định (đặc biệt là giám định âm thanh, hình ảnh), trong khi Phòng Giám định kỹ thuật hình sự VKSND tối cao chưa đủ điều kiện để hoạt động; Viện Khoa học kỹ thuật hình sự (C09) Bộ Công an là đơn vị duy nhất có chức năng giám định âm thanh, hình ảnh, đơn vị này thường ưu tiên giải quyết các việc giám định trong lực lượng Công an nhân dân trước, nên việc giải quyết nguồn tin thường phải gia hạn, mất nhiều thời gian.
Bốn là, Cơ quan điều tra VKSND tối cao chưa được trang bị cơ sở vật chất, phương tiện, trang thiết bị làm việc như Cơ quan điều tra trong Công an và Quân đội nhân dân. Chưa có cơ chế hợp lý để sử dụng nguồn kinh phí đặc thù cho hoạt động điều tra; chế độ tiền lương và chính sách đãi ngộ đối với Điều tra viên, Cán bộ điều tra chưa phù hợp, chưa tương xứng với tính chất khó khăn, phức tạp của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nên chưa khuyến khích, tạo điều kiện để đội ngũ Điều tra viên, Cán bộ điều tra yên tâm công tác. Bên cạnh đó, trình độ, kỹ năng của một số Điều tra viên, Cán bộ điều tra có mặt còn hạn chế, chưa đồng đều; ý thức trách nhiệm chưa cao.
2. Một số giải pháp, kiến nghị đề xuất
2.1. Về hoàn thiện thể chế pháp lý
Xây dựng và ban hành thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành Bộ luật Hình sự về Chương các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp (Chương XXIII) và Chương các tội phạm về chức vụ (Chương XXIV); hướng dẫn thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự về tiếp nhận, thu thập và xử lý tố giác, tin báo về tội phạm; công tác phối hợp trong việc phát hiện, điều tra các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao.
Xây dựng, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy chế, quy định trong ngành Kiểm sát nhân dân, các quy chế, quy định của Cơ quan điều tra VKSND tối cao, nhằm tạo ra cơ chế pháp lý, lề lối làm việc trong nội bộ Cơ quan điều tra VKSND tối cao, như: Quy trình về giải quyết nguồn tin về tội phạm; quy chế lập hồ sơ vụ án hình sự, lưu trữ hồ sơ vụ án hình sự; quy định về trực ban hình sự...
2.2. Về kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Dự báo trong thời gian tới khối lượng công việc của Cơ quan điều tra VKSND tối cao sẽ tăng lên rất nhiều và tính chất công việc ngày càng phức tạp, khó khăn hơn. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới tăng thêm theo quy định của các đạo luật mới, Cơ quan điều tra VKSND tối cao cần phải được kiện toàn về tổ chức bộ máy và biên chế theo hướng:
- Xây dựng lực lượng và nâng cao trình độ, kỹ năng nghiệp vụ điều tra cho đội ngũ Cán bộ điều tra, Điều tra viên của Cơ quan điều tra VKSND tối cao. Đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp có tính đặc thù phức tạp, đòi hỏi đội ngũ Điều tra viên của Cơ quan điều tra VKSND tối cao phải có sự nhận thức đầy đủ, đúng đắn các quy định của pháp luật ở nhiều lĩnh vực, có bản lĩnh chính trị, nghiệp vụ vững vàng, có kinh nghiệm điều tra mới đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm này. Cụ thể:
+ Xây dựng đội ngũ Điều tra viên trên cơ sở nâng cao chất lượng hoạt động công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, nâng cao tiêu chuẩn đạo đức, chính trị, trình độ chuyên môn và kỹ năng, kinh nghiệm hoạt động thực tiễn. Đồng thời gắn với việc thực hiện cải cách chính sách tiền lương, nâng cao thu nhập cho đội ngũ công chức, viên chức trong ngành, đổi mới chính sách, chế độ đãi ngộ cho Điều tra viên. Cần có chính sách đãi ngộ xứng đáng, giải quyết hợp lý lợi ích cá nhân với tập thể để giữ cán bộ tốt, Điều tra viên tinh thông nghiệp vụ, đảm bảo việc thực hiện chính sách và điều kiện vật chất cho hoạt động của Điều tra viên.
+ Mở rộng nguồn bổ nhiệm Điều tra viên và đổi mới công tác đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn, bổ nhiệm, khen thưởng và kỷ luật Điều tra viên; tăng cường công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện, kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực thi công vụ đối với đội ngũ Điều tra viên; cần đa dạng nguồn Cán bộ điều tra, Điều tra viên để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ phức tạp, đòi hỏi có trình độ lý luận và thực tiễn cao.
+ Với yêu cầu nhiệm vụ thực tế, biên chế cán bộ, Điều tra viên của Cơ quan điều tra VKSND tối cao cần phải được bổ sung, trong đó Điều tra viên các cấp cần phải được chú trọng tăng cường để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
+ Vinh danh những Điều tra viên tiêu biểu để nhân rộng, tạo sức lan tỏa tạo động lực thi đua sôi nổi trong toàn ngành Kiểm sát; sửa đổi các quy định về tiêu chuẩn đào tạo đối với Điều tra viên của ngành Kiểm sát theo hướng thiết thực, tránh hình thức và phù hợp với thực tế.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ trong thời gian tới: Để bảo đảm cho đội ngũ Điều tra viên có năng lực, trình độ để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ thì trong thời gian tới cần tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế trong công tác nghiên cứu, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ điều tra và học hỏi mô hình, kinh nghiệm của nước ngoài. Mặt khác, cần đổi mới, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ điều tra và mở rộng hợp tác liên kết đào tạo với Học viện Cảnh sát nhân dân Bộ Công an.
- Ngoài việc chuẩn hóa về đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, tư cách đạo đức và bản lĩnh chính trị, cần trang bị cho cán bộ, Điều tra viên kiến thức hội nhập quốc tế và thường xuyên được bồi dưỡng nghiệp vụ công tác điều tra:
+ Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng tại Học viện Cảnh sát nhân dân cho Điều tra viên, Cán bộ điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao về các nội dung như: Nghiệp vụ điều tra hình sự; chiến thuật điều tra; kỹ năng điều tra tổng hợp; kỹ năng điều tra các loại án cụ thể; các kiến thức bổ trợ cho nghiệp vụ điều tra...
+ Thường xuyên tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm về nghiệp vụ điều tra cho Điều tra viên, Cán bộ điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao thông qua các vụ án cụ thể đã được thụ lý, khởi tố, điều tra.
+ Tăng cường công tác nghiên cứu khoa học về hoạt động điều tra của VKSND thông qua việc xây dựng các đề tài khoa học, chuyên đề nghiệp vụ nhằm nâng cao trình độ lý luận nhằm phục vụ tích cực hoạt động điều tra; tổ chức các hội thảo khoa học nghiệp vụ về hoạt động điều tra của VKSND, về quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra VKSND tối cao với hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát; nghiên cứu, tìm hiểu kinh nghiệm hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát, Viện công tố các nước trên thế giới.
2.3. Về đổi mới phương pháp hoạt động điều tra
Với những khó khăn, hạn chế nêu trên thì hoạt động của Cơ quan điều tra VKSND tối cao cần phải được đổi mới theo hướng: Nâng cao năng lực phát hiện, điều tra tội phạm, thực hiện cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động điều tra tội phạm với các công tác kiểm sát nhằm bảo đảm thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND. Thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động điều tra, bảo đảm việc khởi tố, điều tra, xử lý các tội phạm thuộc thẩm quyền có căn cứ, đúng pháp luật, không để xảy ra oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm. Thông qua kết quả, chất lượng hoạt động của Cơ quan điều tra VKSND tối cao để làm rõ hơn yêu cầu tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với điều tra, từng bước công tố chỉ đạo hoạt động điều tra; cụ thể như sau:
- Đổi mới phương pháp thu thập, quản lý thông tin về tội phạm: Thực hiện các biện pháp nghiệp vụ để chủ động thu thập thông tin và phát hiện tội phạm theo hướng chú trọng sử dụng biện pháp nghiệp vụ theo quy định của pháp luật, để chủ động theo dõi, nắm bắt thông tin về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp xảy ra trên toàn quốc, như: Nâng cao trách nhiệm cung cấp thông tin về tội phạm trong nội bộ ngành Kiểm sát nhân dân; có cơ chế khuyến khích, động viên, thu thập thông tin về tội phạm từ nhiều nguồn; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan thông tin đại chúng để trao đổi nguồn thông tin…
Cần nghiên cứu chuyển việc quản lý tin báo và tố giác tội phạm theo phương pháp thủ công sang phương pháp quản lý bằng các phần mềm vi tính nhằm bảo đảm việc quản lý tin báo và tố giác tội phạm một cách khoa học hơn, việc tra cứu thông tin nhanh, chính xác hơn.
- Đổi mới phương pháp điều tra, xác minh: Theo hướng nâng cao chất lượng điều tra của các Phòng điều tra tội phạm tại các địa bàn chuyên sâu từng lĩnh vực hoạt động tư pháp, như: Điều tra các tội phạm xảy ra trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự, thi hành án dân sự và các hoạt động bổ trợ tư pháp khác. Chú trọng phát hiện, khởi tố, điều tra, xử lý các vụ án tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp. Bên cạnh việc làm tốt công tác tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, phải thực hiện các biện pháp nghiệp vụ để chủ động thu thập thông tin và phát hiện tội phạm.
Để việc điều tra, thu thập chứng cứ, tài liệu chứng minh tội phạm có hiệu quả, cần nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ Điều tra viên, nhất là nghiệp vụ điều tra tội phạm để từng bước nâng cao nghiệp vụ điều tra hình sự trong toàn ngành Kiểm sát nhân dân. Bên cạnh đó, cần trang bị đầy đủ công cụ, phương tiện, thiết bị nghiệp vụ phù hợp để đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm này, như: Khám nghiệm, tổ chức ghi âm, ghi hình; thực hiện các biện pháp điều tra đặc biệt; quản lý, sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ... để phục vụ tốt cho công tác điều tra tội phạm.
- Đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo hoạt động điều tra vụ án thông qua việc xây dựng các quy trình nghiệp vụ theo hướng bảo đảm chặt chẽ, khoa học và hiệu quả, làm rõ mối quan hệ giữa quản lý hành chính với quản lý nghiệp vụ nhằm không những quản lý chặt chẽ hoạt động điều tra, mà còn bảo đảm sự chỉ đạo cụ thể, có hiệu quả với từng vụ án và từng hoạt động điều tra của các Điều tra viên, cũng như nâng cao được trách nhiệm và tính chủ động của Điều tra viên, cán bộ quản lý trong hoạt động điều tra.
- Chú trọng công tác phòng ngừa tội phạm, tích cực phát hiện nguyên nhân, điều kiện phạm tội, những sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý để kiến nghị với các cơ quan tư pháp xử lý và phòng ngừa vi phạm, tội phạm. Hoạt động phòng ngừa không chỉ dừng ở những vụ, việc cụ thể mà cần tổng hợp để có những kiến nghị chung về những vi phạm, thiếu sót, sơ hở trong công tác quản lý nhà nước có tính hệ thống, tính phổ biến, chú trọng phát hiện và kiến nghị hoàn thiện pháp luật; sửa đổi, bổ sung những cơ chế quản lý không còn phù hợp...
2.4. Về tăng cường cơ chế phối hợp trong và ngoài ngành
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả phối hợp với các cơ quan đơn vị trong và ngoài ngành Kiểm sát trong nhiều lĩnh vực, như: Việc tiếp nhận thông tin về tội phạm, thu thập chứng cứ, tài liệu, giam giữ, quản lý đối tượng, bị can trong quá trình điều tra vụ án và xử lý vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều tra VKSND tối cao.
- Tăng cường mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra VKSND tối cao với các đơn vị có liên quan, theo hướng:
+ Tăng cường phối hợp, chế ước giữa Cơ quan điều tra VKSND tối cao với Vụ Công tố và kiểm sát điều tra án tư pháp (Vụ 6) VKSND tối cao, bảo đảm có sự phối hợp tích cực trong việc phát hiện, khởi tố, điều tra, đồng thời bảo đảm sự kiểm sát chặt chẽ đối với hoạt động điều tra theo đúng quy định của pháp luật.
+ Nâng cao trách nhiệm phối hợp của Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc VKSND tối cao, Viện trưởng VKSND các cấp, theo đó, Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc VKSND tối cao, Viện trưởng VKSND các cấp chịu trách nhiệm trước Viện trưởng VKSND tối cao về việc quản lý tình hình vi phạm, tội phạm trong hoạt động tư pháp xảy ra trong phạm vi địa phương, đơn vị mình quản lý và kết quả phối hợp trong việc tiếp nhận, quản lý và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao. Đồng thời, chủ động phát hiện các tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều tra VKSND tối cao, kịp thời báo cáo ban đầu theo Quy chế về chế độ thông tin, báo cáo và quản lý công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân cho Cơ quan điều tra VKSND tối cao để phối hợp xử lý.
Trong mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra VKSND tối cao với các đơn vị trực thuộc VKSND tối cao và VKSND các địa phương (chủ yếu là các đơn vị nghiệp vụ trực thuộc VKSND tỉnh, thành phố) là mối quan hệ phối hợp và cung cấp thông tin vi phạm, tội phạm, hỗ trợ hoạt động điều tra cho Cơ quan điều tra VKSND tối cao; ngược lại Cơ quan điều tra VKSND tối cao tiến hành điều tra các vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp, tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp do Viện kiểm sát các cấp đã cung cấp thông tin trực tiếp đến Cơ quan điều tra VKSND tối cao để xử lý theo quy định của pháp luật, tiến hành điều tra nhanh chóng, kịp thời, bảo đảm được tính khách quan, cũng như bảo đảm chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát các cấp được nghiêm túc thực hiện.
+ Tăng cường công tác phối hợp với các đơn vị ngoài ngành Kiểm sát trong việc phối hợp trao đổi thông tin về tội phạm, sử dụng các biện pháp nghiệp vụ, thực hiện việc giám định, thu thập chứng cứ, tài liệu, giam giữ, quản lý đối tượng, bị can trong quá trình điều tra, xử lý vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều tra VKSND tối cao; phối hợp với các đơn vị nghiên cứu, nhà trường đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để Cơ quan điều tra VKSND tối cao không những đấu tranh phòng, chống có hiệu quả các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà còn góp phần xây dựng hệ thống lý luận, đào tạo lý luận, thực tiễn về nghiệp vụ điều tra trong ngành Kiểm sát nhân dân.
- Tăng cường phối hợp, đôn đốc Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự, các cơ quan, tổ chức, cá nhân để đẩy nhanh tiến độ định giá; tăng cường Giám định viên và mở rộng lĩnh vực giám định của Phòng Giám định kỹ thuật hình sự VKSND tối cao để hỗ trợ công tác điều tra tội phạm của Cơ quan điều tra VKSND tối cao nói riêng và ngành Kiểm sát nhân dân nói chung.
- Phối hợp với cơ quan có thẩm quyền mở các lớp đào tạo nâng cao nghiệp vụ điều tra kỹ thuật số với các khóa đào tạo ngắn hạn và trung hạn tại các nước có công nghệ tiên tiến và có thỏa thuận hỗ trợ đào tạo cho Việt Nam.
(1) Hungary, Hoa Kỳ, Thái Lan, Hàn Quốc, Singapore...