Đánh giá chứng cứ khi giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Ngày đăng : 09:13, 30/06/2025

(Kiemsat.vn) - Từ một vụ án trong thực tiễn, tác giả nêu ra quan điểm khác nhau về đánh giá chứng cứ khi giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản như: Bị đơn nhận tiền từ nguyên đơn bằng hình thức chuyển khoản mà không ghi nội dung chuyển tiền cụ thể thì nguyên đơn có quyền yêu cầu bị đơn trả lại số tiền này không? Có căn cứ xác nhận hợp đồng tặng cho tài sản hay hợp đồng vay tài sản không?

1. Nội dung vụ án

Theo đơn khởi kiện và quá trình công bố tài liệu, chứng cứ và hòa giải tại Tòa án xác định như sau: Ông T và bà M là bạn bè, ông T có chuyển khoản cho bà M hai lần với tổng số tiền là 400 triệu đồng (lần 1 - ngày 25/4/2023; lần 2 - ngày 05/7/2023). Nội dung giấy nộp tiền hai lần đều ghi: “LE VAN T CT”.

Sau đó, ngày 16/7/2023, bà M chuyển khoản trả cho ông T số tiền 100 triệu đồng; ông T cho rằng bà M chuyển số tiền này cho ông là trả nợ cho khoản giao dịch khác, nhưng ông T không cung cấp được chứng cứ nên đồng ý cấn trừ vào số tiền 400 triệu đồng mà ông đã chuyển cho bà M.

Mục đích bà M vay tiền ông T là làm vốn kinh doanh trái cây; sau khi bán trái cây xong sẽ trả lại tiền cho ông T. Ngày 25/7/2023, ông T yêu cầu trả tiền nhưng bà M không trả với lý do người mua không trả tiền cho bà. Khi ông T cho bà M vay tiền thì không thỏa thuận lãi suất, bà M cũng không có thế chấp tài sản hay áp dụng bất kỳ hình thức nào để bảo đảm tiền vay. Trừ số tiền 100 triệu đồng bà M đã chuyển, ông T yêu cầu bà M trả lại 300 triệu đồng, không yêu cầu trả lãi.

Bị đơn là bà M thừa nhận có nhận 400 triệu đồng từ ông Lê Văn T chuyển đến; bà M sử dụng số tiền này để kinh doanh trái cây nhưng đã bị thua lỗ hết; khi ông T cho bà tiền cũng không có thỏa thuận về việc trả lại và bà M cũng không thế chấp tài sản hay áp dụng bất kỳ hình thức nào để bảo đảm.

Sau một thời gian chuyển tiền cho bà M, ông T nói đang cần tiền để trả nợ cho người khác; ngày 16/7/2023, bà M chuyển khoản trả cho ông T số tiền 100 triệu đồng. Ông T yêu cầu bà M trả 300 triệu đồng thì bà M không đồng ý vì số tiền đó ông T tự nguyện cho bà, bà M không vay mượn của ông; bà M cũng không có ý kiến gì về số tiền 100 triệu đồng đã chuyển cho ông T.

2. Các quan điểm về đánh giá chứng cứ trong vụ án

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Xét giao dịch chuyển tiền, nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận có giao dịch chuyển tiền và nhận đúng số tiền; ông T và bà M đều thống nhất số tiền đã giao nhận; căn cứ khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì công nhận tình tiết ông T chuyển tiền cho bà M số tiền 400 triệu đồng và bà M chuyển trả 100 triệu đồng là sự thật không phải chứng minh.

Xét về nội dung giao kết hợp đồng: Xuất phát từ việc ông T và bà M quen biết tình cảm với nhau, ông T mong muốn có mối quan hệ tình cảm gắn kết lâu dài với bà M, ông T chuyển khoản cho bà M hai lần với số tiền là 400 triệu đồng; khi chuyển khoản, nội dung chuyển tiền không rõ ràng, không ghi nội dung, mục đích chuyển tiền; ông T không chứng minh được việc “cho vay” và bà M phải có nghĩa vụ trả lại tiền; bà M không đồng ý trả tiền cho ông T, bà M cũng không chứng minh được việc “tặng cho” và bà M không có nghĩa vụ trả lại. Số tiền 100 triệu đồng bà M đã chuyển khoản cho ông T là sự tự nguyện của bà, bà M cũng không yêu cầu ông T trả lại. Do đó, nếu “vay tài sản” là có nghĩa vụ trả lại số tiền vay, còn “tặng cho tài sản” thì người được tặng cho tài sản không có nghĩa vụ trả lại tài sản.

Tuy nhiên, theo Điều 6 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: “Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp”. Ông T đưa ra yêu cầu bà M trả lại số tiền vay thì phải có nghĩa vụ chứng minh đúng là cho bà M vay tiền, không phải tặng cho; ông T không chứng minh được việc cho vay tiền và việc bà M có nghĩa vụ phải trả lại số tiền vay thì sẽ bị bác yêu cầu mặc dù bà M cũng không chứng minh được là bà M được cho.

Ông T chuyển tiền cho bà M, bà M đồng ý nhận. Theo Điều 457 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: “Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, còn bên được tặng cho đồng ý nhận”.

Do đó, căn cứ các điều 6, 26, 35, 39, khoản 2 Điều 92, 147, 186 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 105, 166, 457 Bộ luật Dân sự năm 2015, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông T về việc yêu cầu bà M có nghĩa vụ trả cho ông Lê Văn T số tiền 300 triệu đồng.

Quan điểm thứ hai cũng là quan điểm của tác giả cho rằng: Việc ông T chuyển tiền cho bà M đã được bà M thừa nhận là sự việc có thật, đây là những tình tiết, sự kiện không cần chứng minh theo Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Khi chuyển khoản, không ghi nội dung, mục đích chuyển tiền nhưng ông T trình bày là cho bà M mượn không tính lãi nhằm giúp bà M kinh doanh trái cây là phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và hai giấy nộp tiền trong hai lần với số tiền 400 triệu đồng.

Bà M không đồng ý trả tiền cho ông T nhưng bà M không chứng minh được ông T tặng cho như lời bà trình bày, bà M đã nhận tiền của ông T và sử dụng số tiền này vào mục đích kinh doanh nên bà phải trả lại số tiền đã nhận. Việc bà M trình bày, do ông T muốn gắn kết tình cảm lâu dài nên tự nguyện chuyển khoản tiền tặng cho bà, bà không hỏi vay tiền là không phù hợp. Ngoài lời trình bày, bà M không có chứng cứ nào khác để chứng minh ông T tặng cho bà số tiền trên. Theo Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về nghĩa vụ chứng minh: “... Khoản 2: Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải thể hiện bằng văn bản và phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó. ...; Khoản 4: Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc”.

Đồng thời, việc ông T cho bà M vay tiền là có thật trên thực tế, vì ngày 16/7/2023, bà M đã chuyển khoản trả cho ông T số tiền 100 triệu đồng, nếu bà M không vay thì không có việc chuyển khoản lại cho ông T số tiền này. Ông T thừa nhận có nhận tiền và đồng ý cấn trừ số tiền 100 triệu đồng vào số tiền 400 triệu đồng mà bà M đã vay của ông T mà không yêu cầu lãi suất là có lợi cho bà M, nên việc ông T khởi kiện yêu cầu bà M trả lại số tiền 300 triệu đồng là có cơ sở chấp nhận. Theo khoản 1 Điều 266 BLDS năm 2015 thì: “Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật” nên nguyên đơn - ông T yêu cầu bị đơn - bà M trả lại số tiền 300 triệu đồng là đúng quy định của pháp luật.

Bà M cho rằng số tiền ông T chuyển khoản cho bà là tiền ông T tặng cho nhưng ông T không thừa nhận và bà M cũng không cung cấp được chứng cứ chứng minh số tiền 300 triệu đồng mà ông T đã chuyển là tiền ông T hứa tặng cho bà. Căn cứ Điều 457 và Điều 463 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì số tiền 400 triệu đồng ông T chuyển cho bà M là tiền vay không lãi mà không phải tặng cho.

Vì vậy, cần xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án này là hợp đồng vay tài sản, không phải là hợp đồng tặng cho tài sản.

Nếu chỉ căn cứ vào lời trình bày của bị đơn là bà M mà xác định đây là hợp đồng tặng cho tài sản nên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T thì việc đánh giá chứng cứ là chưa toàn diện, khách quan, không có căn cứ pháp luật, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn.

Trần Hoàng Tú - Nguyễn Phan Khôi

Theo Tạp chí Kiểm sát in số 16/2024