Một số vấn đề rút ra từ công tác kiểm sát việc giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ngày đăng : 14:18, 26/06/2025
1. Một số tồn tại, hạn chế trong kiểm sát tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Trong bối cảnh kinh tế phát triển, việc huy động vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vay vốn giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với tổ chức ngày càng phổ biến và gia tăng nhanh chóng. Điều này dẫn đến các tranh chấp về lãi suất, phương thức thanh toán cũng gia tăng trong các hợp đồng vay và việc xem xét, đánh giá chứng cứ gặp nhiều khó khăn.
Bên cạnh những kết quả tích cực, việc giải quyết vụ án chưa triệt để, kéo dài qua nhiều cấp xét xử vẫn còn tồn tại. Thực tiễn vẫn còn trường hợp đề xuất sai về thời hiệu giải quyết đối với các tranh chấp vay tài sản trong trường hợp bên vay không thực hiện việc thanh toán nợ theo hạn; không xác định được phương án đề xuất tính lãi đối với các khoản vay thực tế, đề xuất không đúng.
Số vụ án bị hủy, sửa có trách nhiệm của Kiểm sát viên chủ yếu liên quan đến việc nhận thức và áp dụng quy định của pháp luật về cách tính lãi suất hoặc áp dụng văn bản pháp luật để giải quyết các trường hợp liên quan đến lãi suất xảy ra trước thời điểm Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 có hiệu lực.
Những tồn tại, hạn chế nêu trên xuất phát từ những nguyên nhân sau:
Một là, thực tiễn cho thấy, nhiều quy định của pháp luật liên quan đến việc giải quyết các vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản chưa thực sự phù hợp, vẫn còn vướng mắc, bất cập về đối tượng, hình thức hợp đồng, nghĩa vụ chứng minh việc giao tiền khi thực hiện hợp đồng, lãi suất vay... Việc nhận thức, áp dụng các quy định này chưa thống nhất, trong khi đó, hoạt động kiểm sát việc giải quyết các vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản chưa có hướng dẫn cụ thể trong toàn ngành.
Hai là, công tác phối hợp giữa Viện kiểm sát với Tòa án ở một số địa phương chưa hiệu quả; chưa xây dựng được quy chế phối hợp hoặc đã xây dựng nhưng nội dung còn sơ sài, chưa đáp ứng được các yêu cầu đảm bảo cơ chế chung cho việc thực hiện các quyền của Viện kiểm sát. Các yêu cầu, kiến nghị của Viện kiểm sát đối với các vụ án dân sự nói chung và tranh chấp hợp đồng vay tài sản nói riêng chưa được Tòa án khắc phục triệt để.
Ngoài ra, lãnh đạo một số đơn vị chưa sát sao, chưa thực sự chú trọng lựa chọn, bố trí cán bộ có kinh nghiệm đảm nhiệm khâu công tác này.
2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng kiểm sát việc giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Nhằm nâng cao chất lượng kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, trong đó có hoạt động kiểm sát việc giải quyết các vụ án tranh chấp vay tài sản, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất, tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành đối với khâu công tác này, kịp thời chỉ đạo, xử lý những vấn đề vướng mắc trong kiểm sát việc giải quyết các vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản. Lãnh đạo đơn vị cần thường xuyên tiến hành kiểm tra chất lượng xây dựng hồ sơ kiểm sát, phương pháp nghiên cứu hồ sơ, cách thức thu thập chứng cứ trong hồ sơ. Đối với các vụ án còn có nhiều quan điểm chưa thống nhất thì kịp thời trao đổi, đề nghị Viện kiểm sát cấp trên có phương hướng giải quyết kịp thời, đảm bảo cho việc đánh giá chứng cứ một cách khách quan, toàn diện; đồng thời, thực hiện việc tổng kết, rút kinh nghiệm đối với các vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản bị cấp trên hủy, sửa có trách nhiệm của Viện kiểm sát trong việc chưa kịp thời phát hiện vi phạm hoặc có các quan điểm đề xuất giải quyết vụ án chưa chính xác, chưa đảm bảo căn cứ; các kháng nghị được Tòa án chấp nhận để các đơn vị cấp dưới nghiên cứu, rút kinh nghiệm chung.
Thứ hai, tăng cường công tác tập huấn chuyên sâu về kỹ năng cho các Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, công chức được giao nhiệm vụ kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự về tranh chấp hợp đồng vay tài sản, nhất là kỹ năng của Kiểm sát viên trước, trong và sau phiên tòa. Thường xuyên thực hiện việc tổng kết, đánh giá kết quả thực tiễn giải quyết các vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản để rút kinh nghiệm chung, đặc biệt là kỹ năng phát hiện các dạng vi phạm của Tòa án; giúp Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, công chức xây dựng được các phương thức kiểm sát, nhằm phát hiện chính xác vi phạm để thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo thẩm quyền.
Thứ ba, tăng cường quan hệ phối hợp với Tòa án nhân dân cùng cấp và giữa các Viện kiểm sát các cấp trong quá trình thực hiện công tác giải quyết vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản. Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần thường xuyên thực hiện việc hệ thống hóa pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản và phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao thống nhất về các vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật để kịp thời ban hành hướng dẫn chỉ đạo toàn ngành và giải đáp những vướng mắc, khó khăn của các địa phương trong quá trình giải quyết các vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Thứ tư, về hoàn thiện quy định của pháp luật:
- Về hình thức của hợp đồng vay tài sản: Bộ luật Dân sự năm 2015 không quy định khi nào hợp đồng vay tài sản được giao kết bằng miệng, khi nào được giao kết bằng văn bản, bằng hành vi hay bằng thông điệp dữ liệu dẫn đến việc áp dụng tùy nghi. Khi xảy ra tranh chấp thì việc chứng minh đối với hình thức thỏa thuận vay tài sản bằng miệng rất khó khăn do không có căn cứ chính xác để chứng minh quyền và nghĩa vụ của các bên, dẫn đến quyền lợi của bên cho vay bị ảnh hưởng khi bên vay từ chối nghĩa vụ trả nợ. Do đó, cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về giá trị tài sản khi vay để các bên có căn cứ lựa chọn hình thức thích hợp, giảm thiểu tối đa rủi ro và tranh chấp có thể xảy ra. Quy định này nên được điều chỉnh theo hướng bắt buộc, nhưng vẫn có hướng áp dụng linh hoạt mà không phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí của các chủ thể. Ví dụ: Quy định hình thức hợp đồng vay tài sản theo hướng: Hợp đồng vay tài sản có giá trị từ 05 triệu đồng trở lên thì phải lập thành văn bản; trường hợp hợp đồng vay tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng trở lên thì phải được công chứng, chứng thực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhằm giảm thiểu tối đa rủi ro và tranh chấp có thể xảy ra.
- Về đối tượng của hợp đồng vay tài sản: Cần hoàn thiện các quy định của BLDS năm 2015 và các văn bản quy định chi tiết theo hướng mở rộng đối tượng của hợp đồng vay tài sản, gồm: Ngoại hối, vàng và tài sản hình thành trong tương lai cho phù hợp với thực tế hiện nay.
Quy định bên cho vay trong hợp đồng vay tài sản có bảo đảm của người thứ ba, trường hợp bên vay chết thì bên cho vay có quyền khởi kiện người thừa kế của bên vay hoặc khởi kiện người nhận bảo đảm mà trong giấy vay có ghi người thứ ba nhận bảo đảm trả khoản vay của người vay nếu người vay không trả được cho người cho vay.
Quy định bên cho vay trong hợp đồng vay tài sản có bảo đảm của người thứ ba, trường hợp bên bảo lãnh tự nhận nghĩa vụ trả nợ cho bên cho vay và các bên lập văn bản thỏa thuận về nội dung này, sau đó bên cho vay rút đơn khởi kiện và vụ án được đình chỉ, nhưng bên bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bên vay, thì bên cho vay có quyền khởi kiện vụ án đối với người vay theo giấy vay có người nhận bảo lãnh ký và khởi kiện người bảo lãnh nhận nghĩa vụ trả nợ thay cho bên vay và đã thực hiện được một phần nghĩa vụ trả nợ, nhưng sau đó không thực hiện tiếp.
- Về lãi suất vay:
+ Thống nhất các quy định về cách tính lãi suất ở các văn bản pháp luật khác nhau nhưng quy định chung về một lĩnh vực để tránh rắc rối khi tranh chấp.
+ Sửa đổi, bổ sung các quy định về cách tính lãi suất đối với đối tượng của hợp đồng vay tài sản không phải là tiền (vật, giấy tờ có giá,...), vì hợp đồng vay vẫn cho phép thỏa thuận về lãi suất đối với vay các tài sản khác. Cụ thể là khi quy định về lãi suất cần lưu ý về mức lãi suất 20%/năm của khoản tiền vay, cần mở rộng quy định này đối với các tài sản khác hoặc quy định mức lãi suất đối với các tài sản khác hoặc bỏ vấn đề tính lãi suất đối với việc vay tài sản khác, chỉ giữ lại lãi suất quá hạn đối với việc vay tài sản.
+ Bổ sung những quy định về cách tính lãi suất trong trường hợp hợp đồng vay tài sản bị hủy, đơn phương chấm dứt: Các hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng nằm ngoài ba trường hợp này bị coi là hành vi vi phạm hợp đồng và bên vi phạm sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật. Như vậy, theo quy định này, một bên có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trong hợp đồng hoặc các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Thông thường, theo nguyên tắc chung thực hiện hợp đồng thì hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng không phải là hành vi hợp pháp và bị coi là vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, trong những trường hợp nhất định, để bảo vệ quyền lợi của một bên nào đó (chủ yếu là bên bị vi phạm), pháp luật quy định quyền được đơn phương chấm dứt hợp đồng của bên đó.
Kịp thời ban hành Nghị quyết nhằm thống nhất việc thực hiện các quy định của BLDS năm 2015 về hợp đồng vay tài sản chưa rõ ràng, còn nhiều nhận thức khác nhau trong quá trình áp dụng, ví dụ: (1) Các quy định liên quan đến vấn đề về thời điểm xác định lãi suất, lãi quá hạn, đặc biệt là về vấn đề thời hiệu trong giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản để tạo cơ sở pháp lý, bảo đảm thống nhất trong nhận thức và áp dụng; (2) Ban hành án lệ về việc giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản; (3) Hướng dẫn việc xác định trách nhiệm liên đới của vợ chồng đối với hợp đồng vay tài sản (Điều 25 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định trách nhiệm liên đới của vợ chồng đối với giao dịch dân sự do một bên thực hiện). Đến nay chỉ có một căn cứ duy nhất để có thể xác định trách nhiệm liên đới của vợ chồng đối với giao dịch do một bên thực hiện, đó là “nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình”. Thực tiễn xét xử các vụ án tranh chấp vay tài sản cho thấy, nguyên đơn thường không đủ chứng cứ chứng minh khoản tiền mà họ cho vay đã được bị đơn sử dụng “nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình”. Vì vậy, thông thường, Tòa án chỉ buộc một bên (vợ hoặc chồng) phải trả nợ cho nguyên đơn. Điều này dẫn đến hậu quả là sau khi giải quyết những vụ án này, việc thi hành án sẽ không thể thực hiện được vì người vợ (hoặc chồng) không chấp nhận bán tài sản chung để cho người kia thi hành án. Trong những trường hợp này, cơ quan Thi hành án thường phải để vợ, chồng tự phân chia tài sản hoặc phải chờ bản án của Tòa án xét xử phân chia tài sản chung của vợ chồng để có căn cứ thi hành án. Nếu họ không tự phân chia hoặc không yêu cầu Tòa án phân chia thì việc thi hành sẽ bị kéo dài, gây thiệt hại cho nguyên đơn.
Khoản 2, 3 Điều 28 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng quy định việc thỏa thuận bàn bạc của vợ chồng trong việc sử dụng tài sản chung có giá trị lớn. Do vậy, để có căn cứ xác định trách nhiệm liên đới đối với việc hoàn trả các khoản vay (lãi) trong trường hợp giao dịch do một bên vợ hoặc chồng thực hiện đối với tài sản chung của vợ chồng, cần có hướng dẫn thống nhất đường lối giải quyết.
- Về hướng dẫn thực hiện Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: Điểm a, khoản 1 Điều 13 Nghị quyết quy định về lãi, lãi suất và thời điểm chịu khoản lãi và lãi suất trên số tiền còn phải thi hành án, kể từ ngày tiếp theo ngày xét xử sơ thẩm. Điểm b khoản 1 điều 13 Nghị quyết quy định về thời điểm tính mức lãi suất trên số tiền phải nộp ngân sách (mà pháp luật có quy định nghĩa vụ trả lãi) hoặc khoản tiền bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng hoặc trường hợp chậm thực hiện nghĩa vụ về tài sản trong hoặc ngoài hợp đồng khác thì thời điểm tính lãi kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự về tranh chấp hợp đồng vay tài sản có trường hợp các bên có thoả thuận về lãi (thống nhất mức lãi suất hoặc có tranh chấp mức lãi suất), nhưng tại phiên tòa, họ không yêu cầu về việc trả lãi trên nợ gốc nữa. Trong trường hợp này thì khi xét xử, Tòa án quyết định bên vay phải chịu lãi suất trên số tiền chậm trả tại thời điểm tiếp theo ngày xét xử sơ thẩm hay kể từ ngày có đơn yêu cầu của người được thi hành án? Do còn có những nhận thức khác nhau đối với quy định này nên cần có hướng dẫn cụ thể.
Nguyễn Thị Hồng Yến - Phạm Thị An Mây