Pháp luật về tiền ảo nhìn từ khía cạnh thuế thu nhập cá nhân
Ngày đăng : 10:13, 20/06/2025
1. Khái niệm và đặc điểm của tiền ảo
Vào năm 2012, Ngân hàng trung ương Châu Âu - European Central Bank (ECB) định nghĩa: “Tiền ảo (virtual money) là một loại tiền kỹ thuật số (digital money) không được điều chỉnh bởi Ngân hàng trung ương; được ban hành và kiểm soát bởi nhà phát triển và được sử dụng và chấp nhận giữa các thành viên của cộng đồng ảo nhất định”. Theo định nghĩa trên thì tiền ảo không giống như tiền thật được lưu hành, không được điều chỉnh bởi Ngân hàng trung ương; đồng thời, tiền ảo được sử dụng và chấp nhận giữa các thành viên của cộng đồng mạng nhất định mà không được Nhà nước thừa nhận.
Trong một nghiên cứu khác, ECB đã hoàn thiện khái niệm về tiền ảo để phù hợp với bối cảnh và sự phát triển của tiền ảo, theo đó, “tiền ảo có thể được định nghĩa như một đại diện số có giá trị, không phải do Ngân hàng trung ương hoặc các tổ chức tài chính phát hành; và có thể được sử dụng để thay thế tiền thật”. Từ khái niệm này của ECB có thể rút ra các đặc tính của tiền ảo bao gồm: (1) Là một đại diện số có giá trị; (2) Không phải là tiền pháp định do Ngân hàng hoặc các tổ chức phát hành; (3) Có thể được sử dụng thay thế tiền thật. Khái niệm này của ECB sau đó đã được đưa vào trong các văn bản chính thức của Hội đồng Châu Âu và Ủy ban Châu Âu.
Theo Cục phòng chống tội phạm tài chính Hoa Kỳ (FinCEN), tiền ảo được định nghĩa là một phương tiện trao đổi mà hoạt động như tiền thật trong một số môi trường, nhưng không có tất cả các thuộc tính của tiền thật. FinCEN xác định rằng: “Tiền ảo là một kiểu trao đổi hoạt động giống như đồng tiền trong một số môi trường, nhưng không có tất cả các thuộc tính của đồng tiền thực. Vì vậy, theo Đạo luật bảo mật Ngân hàng, tiền ảo không đáp ứng các tiêu chí để được coi là tiền tệ. Tuy nhiên, nó hoạt động như một công cụ thay thế cho đồng tiền thực và có thể đổi sang tiền thật. Các đồng tiền ảo được gọi là các khoản tín dụng, có nghĩa là chúng không có giá trị nội tại (chúng không được định giá bởi vàng, bạc, dầu, lúa mì, hoặc các mặt hàng khác), và giá trị của chúng được xác định bởi sự quyết định của các tổ chức hoặc giá thị trường”. Như vậy, theo FinCEN, tiền ảo không phải là tiền thật, do đó, giá trị của tiền ảo không cần xác định theo mệnh giá như tiền thật mà giá trị được quyết định bởi người phát hành hoặc giá trị trường.
Văn phòng trách nhiệm Chính phủ Mỹ (GAO - United States Gorverment Accountability Office) trong một nghiên cứu đã đưa ra định nghĩa: “Tiền ảo là một đơn vị trao đổi số hóa, không được đảm bảo bởi một đồng tiền chính thức do Chính phủ phát hành. Tiền ảo có thể được sử dụng rộng rãi trong một nền kinh tế ảo (là nền kinh tế được định nghĩa bao gồm các hoạt động kinh tế giữa các nhóm cộng đồng, tương tác với nhau thông qua các thiết lập ảo) hoặc có thể được sử dụng thay cho đồng tiền Chính phủ để mua bán hàng hóa, dịch vụ trong một nền kinh tế thực”.
Như vậy có thể thấy, hiện nay, có nhiều định nghĩa về tiền ảo. Mỗi một định nghĩa có cách thức giải thích riêng. Từ những luận giải trên, tiền ảo có thể được định nghĩa như sau: Tiền ảo là loại tiền không tồn tại hữu hình, mà tồn tại dưới hình thức kỹ thuật số được phát hành bởi cá nhân hoặc tổ chức, không phải là đồng tiền pháp định do Nhà nước của một quốc gia phát hành, có giá trị sử dụng trong cộng đồng mạng hoặc có thể được sử dụng để thực hiện việc trao đổi, thanh toán với các loại hàng hóa, dịch vụ khác.
Từ định nghĩa trên, có thể rút ra một số đặc điểm của tiền ảo như sau: (1) Tiền ảo là một loại tiền không tồn tại dưới dạng vật chất, dưới dạng hữu hình trên thực tế. Tiền ảo tồn tại dưới hình thức kỹ thuật số trên không gian mạng; (2) Tiền ảo không phải đồng tiền pháp định do Nhà nước phát hành mà được phát hành bởi một cá nhân hoặc tổ chức; (3) Giá trị của tiền ảo không được xác định theo mệnh giá giống như tiền thật. Giá trị của tiền ảo được xác định bởi chủ thể phát hành hoặc theo giá thị trường; phụ thuộc nhiều vào yếu tố nhu cầu của chính các nhà đầu tư; tiền ảo không được thừa nhận sử dụng như tiền thật mà tiền ảo chỉ có giá trị sử dụng trong cộng đồng mạng hoặc được coi như một phương tiện thanh toán để thực hiện việc trao đổi, thanh toán với các loại hàng hóa, dịch vụ khác.
2. Quy định của pháp luật về thuế thu nhập cá nhân đối với các khoản thu nhập từ tiền ảo
Căn cứ pháp lý để xác định nộp thuế thu nhập cá nhân (TNCN) khi mua bán tiền ảo, tiền mã hóa thì phải xác định tiền ảo có phải là đối tượng chịu thuế theo quy định của Luật thuế TNCN năm 2007 hay không.
Theo Điều 2, Điều 3 Luật thuế TNCN năm 2007, đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Hiện nay, chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định tiền mã hóa là hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam.
Theo khoản 2 Điều 3 Luật thương mại năm 2005 thì “hàng hóa bao gồm tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; những vật gắn liền với đất đai”. Như vậy, tiền ảo, tiền mã hóa để có thể trở thành hàng hóa thì trước hết cần được ghi nhận là một loại động sản.
Theo quy định tại Luật đầu tư năm 2020, đầu tư tiền mã hóa không nằm trong các ngành nghề bị cấm đầu tư kinh doanh, cũng chưa có bất kỳ văn bản hướng dẫn nào cấm các hoạt động các cá nhân đầu tư tiền ảo. Hiện nay, Việt Nam chưa có bất cứ quy định nào về tiền ảo và các hoạt động liên quan đến tiền ảo. Tại Thông cáo báo chí về bitcoin và các loại tiền ảo tương tự khác của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng chỉ thể hiện khuyến cáo đối với các nhà đầu tư như sau: “Việc sở hữu, mua bán, sử dụng bitcoin (và các loại tiền ảo tương tự khác) như là một loại tài sản tiềm ẩn rất nhiều rủi ro cho người dân và không được pháp luật bảo vệ”.
Thuế TNCN là hình thức thuế trực thu nhằm đảm bảo nghĩa vụ thuế của chủ thể khi có phát sinh một khoản thu nhập, là công cụ điều tiết vĩ mô hướng tới công bằng xã hội. Thất thu thuế thu nhập gây ảnh hưởng đến ngân sách và lòng tin của người nộp thuế. Thuế thu nhập hiện nay chưa được áp dụng đối với các khoản thu nhập có được từ đầu tư, mua bán tiền ảo. Theo Điều 3 Luật thuế TNCN năm 2007, các cá nhân có nghĩa vụ nộp thuế từ 10 dạng thu nhập được liệt kê; tại Điều 4, các cá nhân không có nghĩa vụ nộp thuế theo 14 dạng thu nhập được liệt kê. Tất cả 24 dạng thu nhập này đều không có thông tin nào làm rõ vấn đề thu nhập từ các hoạt động đầu tư, mua bán tiền ảo và tài sản ảo. Như vậy, các thu nhập từ hoạt động kinh doanh tiền ảo, tiền mã hóa không được coi là đối tượng chịu thuế theo pháp luật Việt Nam.
Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính quy định các trường hợp phải nộp và không phải nộp thuế cá nhân, cũng không bao gồm tài sản ảo. Tại khoản 1, thu nhập có được từ hoạt động sản xuất - kinh doanh được liệt kê gồm hàng hóa, vận tải, cho thuê nhà… không xác định có bao gồm hình thức thu nhập từ tài sản ảo hay không. Trong trường hợp này, tài sản ảo không phải hoạt động sản xuất - kinh doanh, cho thuê như đã được liệt kê. Người có thu nhập phát sinh từ hoạt động kinh doanh, đầu tư tiền ảo có thể không kê khai, không nộp thuế mà không vi phạm Luật thuế TNCN năm 2007, trong khi đó mục tiêu phổ biến hàng đầu đối với cá nhân hay tổ chức khi tạo lập, mua bán, giao dịch đầu tư tài sản ảo là mục tiêu thu lợi.
Nghiên cứu môi trường giao dịch các loại tiền ảo, giao dịch tiền ảo có thể thực hiện thông qua ba phương thức: (i) Giao dịch trực tiếp giữa hai chủ tài khoản; (ii) Giao dịch thông qua một sàn giao dịch phi tập trung, về bản chất chỉ là một phần mềm tạo điều kiện cho giao dịch trực tiếp được thực hiện, chủ sở hữu vẫn tự quản lý chìa khóa công nghệ token; (iii) Giao dịch tập trung, tại đây, sàn giao dịch đại diện cho chủ sở hữu đứng ra hoàn thành việc mua - bán. Mặc dù có tên là phương thức giao dịch tập trung, hình thức giao dịch này thực hiện “tập trung” tại một sàn giao dịch tư nhân không có sự kiểm soát của Ngân hàng trung ương như đồng tiền pháp định. Theo khoản 9 Điều 3 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/05/2013 của Chính phủ quy định về thương mại điện tử thì các sàn giao dịch tiền mã hóa cũng không được coi là sàn giao dịch điện tử do chưa xác định được tiền mã hóa có phải là hàng hóa, dịch vụ hay không. Các sàn giao dịch này hiện vẫn đang nằm ngoài sự quản lý của pháp luật Việt Nam. Vì không được giao dịch tập trung, không có sự kiểm soát bởi pháp luật và do bản chất các giao dịch tiền ảo và tài sản ảo là các hợp đồng thông minh nên các giao dịch này được thực hiện bởi các chủ tài khoản, tuân theo các điều kiện giao dịch của hợp đồng theo mẫu.
Điểm c khoản 1 Điều 50 Luật quản lý thuế năm 2019 quy định về ấn định thuế đối với người nộp thuế trong trường hợp vi phạm pháp luật về thuế như sau: “1. Người nộp thuế bị ấn định thuế khi thuộc một trong các trường hợp vi phạm pháp luật về thuế sau đây: … c) Không xuất trình sổ kế toán, hóa đơn, chứng từ và các tài liệu cần thiết liên quan đến việc xác định số tiền thuế phải nộp trong thời hạn quy định;…”.
Mặc dù pháp luật Việt Nam quy định trong trường hợp không có đầy đủ các tài liệu cần thiết để truy thu thuế vẫn có thể ấn định thuế. Tuy nhiên, bản chất của tiền ảo mang tính ẩn danh rất cao, khó có thể truy đến chủ sở hữu thật sự và chủ yếu được thực hiện trên các sàn giao dịch tiền ảo quốc tế dẫn tới khó khăn cho các cơ quan thuế trong việc truy thu số thuế từ các cá nhân. Khó khăn phát sinh trong quản lý sàn giao dịch tiền ảo là một vấn đề đang được quan tâm, vì từ tiền ảo đến sàn giao dịch tiền ảo, chủ thể pháp lý đều không chịu sự điều chỉnh của văn bản pháp luật nào. Việc không bị quản lý tiềm ẩn các rủi ro khi phát sinh tranh chấp, phát sinh thiệt hại, phát sinh nghĩa vụ thuế.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam cần sớm xây dựng chính sách quản lý tài sản ảo, để chuyển đổi dần giao dịch ngầm từ tài sản ảo sang công khai, qua đó thu được dòng thuế từ tiền ảo, tài sản ảo, từ đó góp phần vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
3. Một số đề xuất
Thứ nhất, cần phải xác định rõ khái niệm cũng như bản chất của đồng tiền mã hóa, từ đó xác định đồng tiền ảo trở thành đối tượng quản lý theo pháp luật Việt Nam. Việc mua bán, trao đổi, giao dịch loại tiền này cũng cần được quy định nhằm bảo đảm quyền và nghĩa vụ cho các chủ đầu tư tiền ảo. Từ đó, hợp thức hóa các nguồn thu nhập từ tiền ảo trở thành đối tượng chịu thuế của pháp luật Việt Nam, tránh thất thoát một khoản thu lớn cho Nhà nước. Sự hình thành và phát triển mạnh mẽ của tiền ảo là tất yếu, việc đánh thuế tài sản ảo, tiền mã hóa là một chính sách cần thiết và có ích cho quốc gia, đặc biệt khi Việt Nam đang đứng đầu thế giới về số lượng giao dịch tiền ảo. Đây là phương thức để bảo vệ các nhà đầu tư, chống thất thu thuế cho Nhà nước. Đồng thời, các nhà làm luật có thể cân nhắc việc ghi nhận tiền ảo là một loại tài sản đặc biệt để áp dụng thuế TNCN từ sở hữu cũng như giao dịch các loại tài sản đó
Thứ hai, cần ghi nhận sàn giao dịch tiền mã hóa là một trong những sàn giao dịch thương mại điện tử và dần dần từng bước xây dựng đồng tiền mã hóa ổn định (stablecoin). Tương tự xu thế ở một số quốc gia trên thế giới, các đồng tiền stablecoin dựa trên công nghệ blockchain được xây dựng nhằm mục đích làm trung gian cũng như lưu giữ giá trị giữa các đồng tiền mã hóa với nhau. Các khoản thu nhập từ các giao dịch mã hóa có thể được coi như một hoạt động đầu tư, các cá nhân đầu tư sinh lời sẽ phải chịu nghĩa vụ phải nộp thuế. Quản lý tốt được các sàn giao dịch, mua bán tiền mã hóa để sinh lời giúp Nhà nước định danh các chủ đầu tư tiền ảo một cách dễ dàng hơn. Một số quốc gia đã thực hiện cấp giấy phép đăng ký kinh doanh loại hình tài sản này, theo đó quản lý được một cách chặt chẽ toàn bộ hoạt động kinh doanh tài sản ảo, bao gồm cả việc hoàn thành các nghĩa vụ thuế của các cá nhân sở hữu.
Thứ ba, để quản lý và thu được thuế TNCN từ tiền ảo thì pháp luật nên coi ngành nghề kinh doanh tiền ảo là một ngành nghề kinh doanh có điều kiện và cần phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép hoạt động. Như vậy, sẽ tránh được tình trạng kinh doanh ồ ạt, bừa bãi, hoặc lợi dụng kinh doanh tiền ảo để lừa đảo, rửa tiền, từ đó thực hiện các hành vi phạm pháp khác. Đồng thời, cũng là cơ sở để cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý và thu thuế liên quan đến hoạt động đầu tư, kinh doanh tiền ảo.
Thứ tư, việc đánh thuế tài sản ảo cần thực hiện trên nguyên tắc coi tài sản ảo là một hình thái tài sản đặc biệt để áp thuế tài sản. Như vậy, một mặt sẽ thừa nhận sự tồn tại và phát triển của loại tài sản mới này, đồng thời cũng chủ động để bảo vệ nhà đầu tư, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia. Hơn nữa, từ nguyên tắc coi tiền ảo là một tài sản đặc biệt, thì cần phải có hướng dẫn riêng về kê khai thuế từ các văn bản đặc biệt.
Vũ Thùy Linh