Một số vấn đề về áp dụng trách nhiệm liên đới của vợ chồng trong thực tiễn xét xử

Ngày đăng : 10:12, 17/06/2025

(Kiemsat.vn) - Bài viết phân tích, làm rõ về trách nhiệm liên đới của vợ chồng; phân biệt trách nhiệm liên đới của vợ chồng với nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng, những điểm bất cập, không phù hợp trong thực tiễn xét xử; trên cơ sở đó, đề xuất một số nội dung có liên quan nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề này.

1. Nhận diện trách nhiệm liên đới của vợ chồng

Dưới góc độ pháp luật dân sự, trách nhiệm dân sự đặt ra khi bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ, tức là “bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ”. Theo đó, có thể xác định trách nhiệm dân sự là hệ quả của việc vi phạm nghĩa vụ dân sự. Từ đó có thể thấy, trách nhiệm liên đới là trách nhiệm của nhiều người có sự ràng buộc, chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau khi không thực hiện nghĩa vụ đáp ứng quyền, lợi ích của chủ thể có quyền. Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 quy định về thực hiện nghĩa vụ liên đới tại Điều 288, theo đó, nghĩa vụ liên đới là một loại nghĩa vụ dân sự khác với nghĩa vụ riêng rẽ.

Quan hệ tài sản giữa vợ chồng với người thứ ba cũng có thể phát sinh trách nhiệm liên đới của vợ chồng. Về bản chất pháp lý, trách nhiệm liên đới của vợ chồng cũng là một loại nghĩa vụ liên đới, mà người có nghĩa vụ liên đới là vợ chồng đối với người có quyền. Các đặc điểm của nghĩa vụ liên đới, việc thực hiện nghĩa vụ liên đới trong quan hệ nghĩa vụ dân sự cũng được áp dụng trong trách nhiệm liên đới của vợ chồng. Tuy nhiên, do sự gắn kết chặt chẽ giữa vợ và chồng, nên tính chất liên đới trong việc thực hiện các nghĩa vụ về tài sản giữa vợ, chồng với người thứ ba nhiều khi bị nhầm lẫn với các nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng. Do đó, cần có sự phân biệt giữa nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng với nghĩa vụ liên đới của vợ chồng. Theo tác giả, sự khác biệt giữa hai loại nghĩa vụ này thể hiện ở các khía cạnh sau:

Thứ nhất, sự khác nhau về bản chất pháp lý. Nghĩa vụ liên đới của vợ chồng không cần có sự thỏa thuận, thống nhất ý chí trước của vợ chồng, mà có thể chỉ do một bên vợ hoặc chồng xác lập, thực hiện giao dịch với người thứ ba, nhưng do tính chất của giao dịch là nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình, nên chịu sự ràng buộc, chi phối và kéo theo trách nhiệm liên đới của cả vợ và chồng. Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng, về nguyên tắc, dựa trên sự thỏa thuận, bàn bạc, thống nhất ý chí của vợ và chồng trong việc xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch với người thứ ba. Vì vậy, khi một nghĩa vụ được xác định là nghĩa vụ liên đới của vợ chồng thì đương nhiên dẫn tới nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng; ngược lại, nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng không phải lúc nào cũng là nghĩa vụ liên đới.

Thứ hai, sự khác biệt về cách thức thực hiện nghĩa vụ. Đối với nghĩa vụ chung của vợ chồng, trên cơ sở nguyên tắc vợ chồng bình đẳng, vợ, chồng có nghĩa vụ thực hiện các nghĩa vụ chung như nhau, tức là mỗi bên vợ, chồng phải thực hiện 1/2 nghĩa vụ chung đối với người có quyền. Trong nghĩa vụ liên đới thì người có quyền được yêu cầu vợ hoặc chồng phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ; nghĩa vụ có thể được thực hiện bằng tài sản chung của vợ chồng, nếu tài sản chung không đủ thì được thực hiện bằng tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng, thậm chí có thể phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ bằng tài sản riêng của vợ (hoặc chồng). Vợ (hoặc chồng) không chỉ thực hiện phần nghĩa vụ của mình, mà còn phải thực hiện phần nghĩa vụ của chồng (hoặc vợ) khi người đó không có khả năng thực hiện nghĩa vụ. Nghĩa vụ liên đới luôn hướng tới việc bảo vệ tối đa lợi ích của chủ thể có quyền, nhưng đồng thời cũng ảnh hưởng tới lợi ích của người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ liên đới, trong đó có phần nghĩa vụ của các chủ thể có nghĩa vụ liên đới khác.

Như vậy, trách nhiệm liên đới của vợ chồng là nghĩa vụ mà vợ chồng cùng phải thực hiện vì lợi ích của bên có quyền, phát sinh khi một bên vợ hoặc chồng thực hiện các giao dịch hợp pháp trong thời kỳ hôn nhân, nhằm đáp ứng nhu cầu, lợi ích chung của gia đình, trong đó người có quyền được yêu cầu vợ hoặc chồng phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ đối với mình; vợ (hoặc chồng) đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ đối với bên có quyền được yêu cầu chồng (hoặc vợ) phải hoàn trả giá trị tài sản phần nghĩa vụ liên đới mà họ đã thực hiện, trừ khi vợ, chồng có thỏa thuận khác.

2. Thực tiễn xác định trách nhiệm liên đới của vợ chồng trong việc thực hiện các nghĩa vụ chung về tài sản và một số vướng mắc, bất cập

Việc xác định vợ chồng có trách nhiệm liên đới hay không là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, thiết thực đối với vợ, chồng và người thứ ba giao dịch với vợ, chồng. Thực tiễn xét xử cho thấy, việc áp dụng Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) năm 2014 còn có sự không thống nhất giữa các Tòa án, phát sinh vướng mắc trong việc xác định trách nhiệm liên đới của vợ chồng. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Theo đó, trách nhiệm liên đới của vợ chồng phát sinh đối với giao dịch do một bên vợ hoặc chồng thực hiện vì nhu cầu thiết yếu của gia đình mà không cần có sự thỏa thuận, bàn bạc trước giữa vợ và chồng, tức là vợ, chồng cùng có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ tài sản phát sinh từ giao dịch đó bằng tài sản chung của vợ chồng, nếu tài sản chung không đủ thì phải thực hiện bằng tài sản riêng của mỗi bên. Để xác định trách nhiệm liên đới của vợ chồng trong những trường hợp này, cần xác định mục đích của giao dịch là nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Do đó, có quan điểm cho rằng: “Vợ hoặc chồng tự xác lập các nghĩa vụ về tài sản trong thời kỳ hôn nhân thì chỉ làm phát sinh nghĩa vụ liên đới cho người còn lại khi có chứng cứ chứng minh được mục đích của việc xác lập giao dịch đó, nếu không chứng minh được thì nghĩa vụ đó là nghĩa vụ riêng của người vợ, chồng tự xác lập”. Quy định này giúp đảm bảo quyền tự chủ, tự quyết định của vợ, chồng trong giao dịch dân sự, nhằm kịp thời đáp ứng các nhu cầu cấp thiết của gia đình, đồng thời xác định, ràng buộc trách nhiệm của vợ, chồng trong việc đảm bảo nhu cầu sống của gia đình. Trong thực tiễn xét xử, Tòa án chỉ cần xác định giao dịch được thực hiện vì lợi ích chung của gia đình là đã xác định vợ chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch đó. Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tế cuộc sống vợ chồng và bản chất của quan hệ hôn nhân.

Ví dụ: Vợ hoặc chồng vay tài sản trong thời kỳ hôn nhân “để sử dụng vào nhu cầu thiết yếu của gia đình, cụ thể như: Chữa bệnh cho mẹ chồng, cấp cứu cho con, thức ăn nuôi heo và phân bón cho ruộng lúa” thì Tòa án xác định đây là nghĩa vụ liên đới của vợ chồng và buộc vợ, chồng cùng liên đới chịu trách nhiệm. Trong trường hợp mặc dù chồng không trực tiếp vay tiền mà chỉ có vợ vay tiền trong thời kỳ hôn nhân để chăn nuôi phát triển kinh tế chung của gia đình, thì khi vợ không có khả năng trả nợ, Tòa án buộc chồng có trách nhiệm liên đới cùng vợ trả nợ.

Ngược lại, nếu những giao dịch do một bên vợ hoặc chồng thực hiện mà bên kia không biết và không chứng minh được là vì lợi ích chung của gia đình thì vợ hoặc chồng là người xác lập giao dịch có nghĩa vụ trả nợ riêng. Ví dụ: Vợ tham gia hụi dẫn đến phát sinh các khoản nợ, chồng không biết thì nghĩa vụ trả nợ là nghĩa vụ riêng của vợ mà chồng không phải trả; vụ việc bà N vay của bà T số tiền 100 triệu đồng trong thời kỳ hôn nhân, ông S là chồng bà không biết về việc vay đó. Bản án đã lập luận rằng: “Bà N và ông S là vợ chồng, hiện đang chung sống phải cùng có trách nhiệm liên đới trả nợ cho bà T theo quy định tại Điều 27 Luật HN&GĐ, Điều 288 BLDS”. Theo tác giả, trong vụ án này, Tòa án đã xác định không đúng nghĩa vụ liên đới, vì chưa đủ căn cứ để xác định nghĩa vụ trả nợ khoản tiền vay là nghĩa vụ liên đới của vợ chồng, mà đây là nghĩa vụ riêng của bà N. Chính bà N cũng thừa nhận chồng bà không biết việc vay tiền và bà sẽ trả nợ một mình.

Trong trường hợp một bên vợ (chồng) một mình xác lập giao dịch nhưng chồng (vợ) biết hoặc buộc phải biết về các giao dịch đó mà không có ý kiến gì, thì cũng có trách nhiệm liên đới đối với các nghĩa vụ tài sản phát sinh. Ví dụ: Một bên vợ hoặc chồng đứng tên mua hợp đồng bảo hiểm cho con và đóng phí bảo hiểm định kỳ, thì người không trực tiếp tham gia giao dịch vẫn được xác định là đã biết và buộc phải biết về việc này, có nghĩa vụ liên đới thanh toán các khoản phí bảo hiểm; hoặc vụ việc vợ làm chủ hụi, tổ chức các đường dây hụi, sau đó bị bể hụi, mất khả năng chi trả, Tòa án đã buộc chồng phải liên đới cùng với vợ chịu trách nhiệm trả số tiền nợ hụi còn thiếu cho các nguyên đơn với lập luận là: Bà X tổ chức làm chủ hụi các dây hụi ngay tại quán cà phê ở nhà của vợ chồng bà X, ông E trong thời gian dài biết rõ việc bà X tổ chức và làm chủ hụi nhiều dây hụi, ông E có tham gia thu gom tiền hụi, tổ chức bốc thăm khui hụi giúp bà X. Bà X cũng thừa nhận có sử dụng tiền lãi hụi, tiền hoa hồng hụi vào việc chi tiêu mua sắm, sinh hoạt, buôn bán, kinh tế gia đình… Vì vậy, buộc bà X và ông E liên đới trả nợ hụi cho các nguyên đơn là hoàn toàn có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật. Vụ việc này cho thấy, nghĩa vụ liên đới là nghĩa vụ do một bên vợ hoặc chồng xác lập, nhưng bên kia biết (hoặc buộc phải biết) thì cùng phải liên đới chịu trách nhiệm với bên có quyền.

Thứ hai, vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với các giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện tại các điều 24, 25 và 26 Luật HN&GĐ năm 2014. Theo tác giả, các giao dịch do một bên vợ hoặc chồng thực hiện phù hợp với quy định về đại diện tại các điều 24, 25, 26 Luật HN&GĐ năm 2014 sẽ làm phát sinh nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng, do đã có sự thể hiện ý chí của vợ (hoặc chồng) cho chồng (hoặc vợ) thực hiện các giao dịch đó thông qua sự ủy quyền hoặc qua quy định về đại diện đương nhiên theo pháp luật. Vì vậy, đây là nghĩa vụ chung của vợ chồng, vợ chồng có nghĩa vụ như nhau trong việc thực hiện các nghĩa vụ, tức là mỗi bên vợ, chồng có trách nhiệm thực hiện 1/2 nghĩa vụ phát sinh từ các giao dịch này. Do đó, theo tác giả, quy định tại Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2014 chưa hợp lý, bởi vì các giao dịch do một bên vợ hoặc chồng xác lập, thực hiện trên cơ sở đại diện có thể phát sinh nghĩa vụ riêng của vợ hoặc chồng, mà không phải luôn phát sinh trách nhiệm liên đới, như trong trường hợp đại diện giữa vợ và chồng liên quan đến tài sản riêng của người được đại diện.

Thứ ba, vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ chung theo Điều 37 Luật HN&GĐ năm 2014. Quy định này thực chất là nhằm xác định cách thức thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng là vợ chồng liên đới cùng chịu trách nhiệm; nghĩa là cách thức thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng đối với người có quyền sẽ được thực hiện theo Điều 288 BLDS năm 2015. Theo tác giả, quy định này đã phần nào gây bất lợi cho vợ (hoặc chồng) là người đã tự nguyện, tự giác thực hiện toàn bộ nghĩa vụ đối với người có quyền, nhưng chồng (hoặc vợ) của họ đã không thực hiện nghĩa vụ hoàn trả lại cho vợ (hoặc chồng) phần nghĩa vụ liên đới đã thực hiện. Việc yêu cầu hoàn trả khoản tiền đã thanh toán cho phần nghĩa vụ liên đới của chồng (hoặc vợ) là rất khó khăn, khả năng thu hồi gần như không có, đặc biệt là khi chồng (hoặc vợ) không có tài sản hoặc không tự giác sau khi ly hôn, do tính chất của quan hệ tình cảm gắn bó giữa vợ và chồng.

Mặt khác, khoản 2 Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2014 chưa phù hợp với bản chất của nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng. Về nguyên tắc, vợ chồng đều có trách nhiệm như nhau trong việc thanh toán các khoản nợ và mỗi bên vợ, chồng phải chịu trách nhiệm trả 1/2 số nợ, bên có quyền không được yêu cầu bất cứ ai trong vợ, chồng phải thanh toán toàn bộ nghĩa vụ. Đây là điểm đặc thù khác biệt giữa cách thức thực hiện nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng với cách thức thực hiện nghĩa vụ liên đới của vợ chồng và có ảnh hưởng trực tiếp tới quyền, lợi ích chính đáng của vợ, chồng. Khi Tòa án tuyên vợ chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với nghĩa vụ thì người có quyền được yêu cầu bất cứ ai trong hai vợ chồng phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ. Bên vợ (hoặc chồng) đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ đối với người có quyền cũng rất khó yêu cầu chồng (hoặc vợ) phải hoàn trả lại mình phần nghĩa vụ đã thực hiện thay, đặc biệt là trường hợp có tranh chấp về tài sản hoặc giải quyết các khoản nợ chung của vợ chồng khi ly hôn. Việc quy định vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với các nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người có quyền, nhưng lại gây bất lợi cho vợ (chồng) tự nguyện thực hiện toàn bộ nghĩa vụ liên đới, không đảm bảo nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng về tài sản. Điều này cũng gây ra những khó khăn nhất định trong thi hành án dân sự, đặc biệt là khi bản án, quyết định của Tòa án đã xác định rõ nghĩa vụ của từng người, tức là nghĩa vụ liên đới đã chia theo phần.

Thực tiễn xét xử cho thấy, cùng là nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng, nhưng có Tòa án xác định vợ, chồng chịu trách nhiệm như nhau đối với nghĩa vụ chung, do đó, mỗi bên vợ, chồng chịu trách nhiệm thanh toán 1/2 nghĩa vụ trên cơ sở nguyên tắc vợ chồng bình đẳng. Ví dụ: Đối với khoản nợ vợ chồng vay để mua lưới đánh bắt thủy sản, Tòa án xác định là nghĩa vụ chung, mỗi bên vợ, chồng chịu trách nhiệm trả 1/2 số nợ. Có nhiều bản án tuyên những giao dịch mà vợ chồng cùng xác lập trong thời kỳ hôn nhân (như vay tiền tại ngân hàng) là nghĩa vụ chung của vợ chồng và khi ly hôn, mỗi bên vợ, chồng chịu trách nhiệm trả 1/2 số nợ. Theo tác giả, khi Tòa án xác định nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng và quyết định mỗi bên vợ, chồng phải chịu thanh toán 1/2 giá trị của nghĩa vụ là phù hợp với bản chất của quan hệ pháp luật, đảm bảo nguyên tắc vợ chồng bình đẳng trong thực tiễn xét xử.

Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp, những nghĩa vụ tài sản do vợ chồng cùng xác lập với người thứ ba là nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng theo Điều 37 Luật HN&GĐ năm 2014; nhưng có Tòa án lại tuyên vợ chồng có nghĩa vụ liên đới trả những khoản nợ đó dựa trên cơ sở pháp lý tại khoản 2 Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2014. Điều này cho thấy quan điểm giải quyết các nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng không thống nhất qua các bản án. Đặc biệt là có trường hợp, trong cùng một bản án, Tòa án lại tuyên cách thức giải quyết các khoản nợ của vợ chồng đối với ngân hàng khác nhau: Đối với khoản tiền vợ chồng vay của chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh T, bản án tuyên rõ mỗi bên vợ, chồng phải thanh toán cho ngân hàng số tiền như nhau, kể cả tiền lãi, nhưng với khoản tiền vợ chồng vay Ngân hàng N, bản án lại tuyên vợ chồng có trách nhiệm liên đới trả nợ. Sự không thống nhất trong việc xác định cách thức thực hiện các nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng qua thực tiễn xét xử tại Tòa án tạo ra bất cập trong việc áp dụng pháp luật và gây khó khăn nhất định cho việc thi hành án.

3. Một số kiến nghị, đề xuất

Thứ nhất, cần bổ sung khái niệm trách nhiệm liên đới của vợ chồng tại Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014. Khái niệm này là cơ sở để xác định, phân biệt rõ nghĩa vụ liên đới của vợ chồng với nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng, nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên vợ, chồng. Khi xác định đúng bản chất của nghĩa vụ liên đới thì mới xác định đúng cách thức thực hiện nghĩa vụ đối với những người có nghĩa vụ.

Thứ hai, cần xác định rõ căn cứ phát sinh trách nhiệm liên đới giữa vợ và chồng. Theo tác giả, nghĩa vụ liên đới giữa vợ và chồng phát sinh khi vợ (hoặc chồng) xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch vì lợi ích chung của gia đình, thì chồng (hoặc vợ) phải chịu trách nhiệm liên đới đối với các giao dịch đó. Trách nhiệm liên đới của vợ chồng không chỉ giới hạn ở những giao dịch “nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình”, mà còn cần mở rộng đến việc đáp ứng các nhu cầu chung, lợi ích chung của gia đình, vì “nhu cầu thiết yếu của gia đình” trong những trường hợp nhất định không chỉ là nhu cầu sinh hoạt thông thường. Ví dụ: Khi vợ chồng kinh doanh, việc thanh toán các khoản nợ đến hạn kịp thời có ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận kinh doanh, sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp, nên nếu một bên vợ (hoặc chồng) vay tiền để thanh toán các khoản nợ mà không có sự thỏa thuận của chồng (hoặc vợ), thì vẫn cần xác định nghĩa vụ trả nợ là nghĩa vụ liên đới của vợ chồng. Quy định này giúp tạo căn cứ để ràng buộc trách nhiệm liên đới của vợ chồng đối với các giao dịch đáp ứng nhu cầu chung của gia đình nhưng chỉ do một bên vợ hoặc chồng xác lập, thực hiện. Căn cứ để xác định trách nhiệm liên đới của vợ chồng là: Giao dịch do một bên vợ hoặc chồng xác lập là hợp pháp và mục đích của giao dịch là đáp ứng nhu cầu, lợi ích chung của gia đình. Điều này phù hợp với lý luận về trách nhiệm liên đới giữa vợ và chồng và thực tế cuộc sống của vợ chồng.

Thứ ba, cần sửa đổi căn bản quy định tại Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2014 theo hướng sau: Điều 27 quy định về trách nhiệm liên đới của vợ chồng, nhưng lại được đặt ở Mục 2: “Đại diện giữa vợ và chồng” là không hợp lý, bởi sẽ dẫn tới cách hiểu sai trách nhiệm liên đới của vợ chồng là một trường hợp đại diện giữa vợ và chồng. Trách nhiệm liên đới của vợ chồng không phụ thuộc vào việc đại diện giữa vợ và chồng vì nó phát sinh không dựa trên cơ sở đại diện giữa vợ và chồng. Do đó, quy định “vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với các giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện tại các điều 24, 25 và 26 của Luật này” cũng không hợp lý, nên cần loại bỏ quy định này. Bởi vì, các giao dịch do vợ hoặc chồng thực hiện trên cơ sở đại diện giữa vợ và chồng có thể làm phát sinh nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng hoặc nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên vợ, chồng.

Khoản 2 Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2014 đã mặc nhiên xác định cách thức thực hiện các nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng là liên đới chịu trách nhiệm giữa vợ và chồng. Quy định này dẫn tới cách hiểu chưa đúng rằng các nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng tại Điều 37 Luật HN&GĐ năm 2014 là nghĩa vụ liên đới, dẫn tới việc xác định trách nhiệm liên đới của vợ chồng khi thực hiện các nghĩa vụ chung về tài sản. Cách hiểu này khiến việc áp dụng pháp luật không chính xác, không phù hợp với bản chất của quan hệ pháp luật, ảnh hưởng bất lợi đến quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng. Vì vậy, quy định tại khoản 2 Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2014 không hợp lý và không cần thiết, nên cần loại bỏ.

Nguyễn Phương Lan

Theo Tạp chí Kiểm sát in số 16/2024