Hoàn thiện quy định của pháp luật về quyền im lặng của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự

Ngày đăng : 11:00, 26/05/2025

(Kiemsat.vn) - Trong quá trình hội nhập, Việt Nam đã nghiên cứu để nội luật hóa quyền im lặng vào pháp luật trong nước. Gắn với quá trình cải cách tư pháp hiện nay, quy định về quyền im lặng vừa là động lực để cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thay đổi tư duy, phương pháp giải quyết vụ án hình sự; đồng thời là căn cứ, cơ sở để người bị buộc tội bảo vệ tối đa quyền của mình trước quá trình chứng minh tội phạm và người phạm tội từ phía cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

1. Một số quy định của pháp luật về quyền im lặng của người bị buộc tội

Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966 quy định: “Trong quá trình xét xử về một tội hình sự, mọi người có quyền được hưởng một cách đầy đủ và hoàn toàn bình đẳng những bảo đảm tối thiểu như được thông báo không chậm trễ và chi tiết, bằng một ngôn ngữ mà người đó hiểu được về bản chất và lý do buộc tội mình, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội”, quy định trên có thể hiểu là trong tố tụng hình sự, mọi người có quyền không phải đưa ra lời khai gây bất lợi cho bản thân mình, hiểu rộng ra là quyền im lặng. Việt Nam tham gia Công ước trên ngày 24/9/1982, đã từng bước nội luật hóa quy định trong Công ước thành các quy định trong Hiến pháp và pháp luật quốc gia.

Tại Việt Nam, quyền im lặng chưa được quy định cụ thể, trực tiếp trong Hiến pháp và pháp luật chuyên ngành, tuy nhiên đã có những quy định mang “tinh thần” của quyền im lặng. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Trước đây, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định về quyền trình bày lời khai của người bị tạm giữ, bị can, theo đó, trình bày lời khai là quyền mà không phải là nghĩa vụ của người bị tạm giữ, bị can nên họ có thể khai hoặc không khai, do đó họ không buộc phải đưa ra lời khai. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2021 (BLTTHS năm 2015) đã ghi nhận cụ thể hơn về quyền im lặng ở tất cả giai đoạn tố tụng tương ứng với từng tư cách tham gia tố tụng khác nhau của người bị buộc tội, cụ thể tại khoản 1 Điều 57 (Quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu…); điểm d khoản 1 Điều 58; điểm c khoản 2 Điều 59; điểm d khoản 2 Điều 60; điểm h khoản 2 Điều 61 quy định cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được “quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”; quyền im lặng được quy định gián tiếp tại Điều 13 về nguyên tắc suy đoán vô tội; Điều 85 về trách nhiệm chứng minh tội phạm, người phạm tội và các vấn đề trong vụ án hình sự thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; khoản 2 Điều 98 quy định lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án, không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội; Điều 183 quy định về trình tự, thủ tục hỏi cung bị can, trong đó, trước khi tiến hành hỏi cung lần đầu, Điều tra viên phải giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị can; nghiêm cấm việc bức cung, nhục hình đối với bị can; quy định gián tiếp quyền im lặng của người bị buộc tội tại khoản 3 Điều 309 “nếu bị cáo không trả lời các câu hỏi thì Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự tiếp tục hỏi những người khác và xem xét vật chứng, tài liệu có liên quan đến vụ án”… Tương ứng với quyền của người bị buộc tội, BLTTHS năm 2015 còn quy định trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong trường hợp không thông báo và giải thích về quyền im lặng, thì người bị buộc tội được quyền khiếu nại về việc không được thông báo, giải thích quyền tới cơ quan có thẩm quyền. Với những quy định trên, người bị buộc tội luôn có quyền im lặng trong suốt quá trình tiến hành tố tụng, được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thông báo và giải thích về quyền này kể từ khi bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt, tạm giữ và xuyên suốt quá trình tố tụng (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử).

2. Sự cần thiết của việc quy định quyền im lặng đối với người bị buộc tội

Mặc dù pháp luật Việt Nam chưa quy định cụ thể về quyền im lặng mà chỉ có những điều luật mang “tinh thần” của quyền im lặng tại các điều 58, 59, 60, 61 BLTTHS năm 2015, theo đó người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền “trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”. Việc có những quy định mang “tinh thần” của quyền im lặng đã thể hiện sự tiến bộ trong tư duy lập pháp và cho thấy tính cần thiết của quyền này đối với người bị buộc tội. Bên cạnh đó, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải đảm bảo việc thực hiện quyền này đối với người bị buộc tội, có nghĩa vụ thông báo, giải thích quyền đối với người bị buộc tội để họ hiểu quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội trước khi tiến hành hoạt động tố tụng; đồng thời, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải luôn có thái độ tôn trọng quyền im lặng của người bị buộc tội cũng là vấn đề đáng quan tâm.

Nội hàm quyền im lặng theo quy định của pháp luật hiện nay gồm hai vấn đề: (1) Người bị buộc tội có quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến liên quan đến nội dung vụ án hình sự khi được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hỏi; (2) Người bị buộc tội có quyền không trình bày những lời khai chống lại chính họ, tức là không phải đưa ra lời khai bất lợi cho họ hoặc buộc phải nhận là mình có tội. Nội dung quyền im lặng phù hợp với tinh thần nguyên tắc xác định sự thật khách quan của vụ án khi trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội, khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không chứng minh được tội phạm thì người bị buộc tội mặc nhiên được coi là không có tội… Cần lưu ý quyền im lặng là quyền năng pháp lý của người bị buộc tội, mà không phải là nghĩa vụ phải khai báo với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Khi đã là quyền thì người bị buộc tội có thể sử dụng quyền này hoặc không để bảo đảm có lợi cho bản thân trước hoạt động buộc tội của các cơ quan tố tụng.

Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, thông thường có sự không tương xứng giữa vị thế của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và người bị buộc tội. Người bị buộc tội thường ở vào vị trí “yếu thế” so với Điều tra viên, Kiểm sát viên dày dặn kinh nghiệm. Sự bất tương xứng này thể hiện ở kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ hiểu biết pháp luật, phương tiện, phương pháp tác động tâm lý, các thông tin được thu thập,…; mặt khác, người bị buộc tội còn “yếu thế” về tinh thần do xuất hiện những trạng thái tâm lý tiêu cực trước các hành vi, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do vậy, người bị buộc tội thường tự khai nhận tội, cung cấp thông tin tự buộc tội mình.

Để xét người bị buộc tội có cần thiết được thông báo và giải thích về quyền im lặng hay không thì cần xem xét mục đích của việc lấy lời khai, hỏi cung đối với họ có cần thiết hay không? Nếu họ không khai báo thì có thể dựa vào đâu để chứng minh tội phạm, nói cách khác là còn có thể sử dụng những chứng cứ nào để buộc tội họ. Vấn đề này có thể được xem xét trên các phương diện như sau:

Thứ nhất, xét về mục đích của việc lấy lời khai và tính cần thiết của lời khai, có cách tiếp cận cho rằng nếu không lấy lời khai thì không thể xác định được những vấn đề phải giải quyết trong vụ án, sau đó là những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự như lỗi, động cơ, mục đích, nguyên nhân, điều kiện phạm tội… Tác giả cho rằng, khi một vụ án xảy ra, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đứng trước các manh mối, dấu vết và thông tin thu thập được về vụ án thông qua các biện pháp nghiệp vụ, biện pháp điều tra, họ sẽ xây dựng lên “hình ảnh” ban đầu về nội dung vụ án với những nhận định và giả thuyết khác nhau về các yếu tố liên quan đến vụ án, từ đó lần theo các dấu vết của người thực hiện hành vi phạm tội, đó là việc tái hiện hình ảnh trong quá khứ về vụ án của người tiến hành tố tụng nhằm khoanh vùng đối tượng, tránh tình trạng điều tra lan man, lệch hướng điều tra. Đây là hoạt động khó nhất trong quá trình giải quyết vụ án.

Ví dụ: Xác định mục đích của vụ án giết người là để cướp tài sản và hiếp dâm do quá trình khám nghiệm hiện trường thấy đồ đạc bị mất, khám nghiệm tử thi thấy có tinh dịch và dấu hiệu thực hiện hành vi tình dục đối với nạn nhân thì Cán bộ điều tra có thể khoanh vùng đối tượng là nam giới, động cơ chiếm đoạt tài sản là vụ lợi, đối tượng không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định… Từ đó, xác định được các đặc điểm liên quan ban đầu về người bị tình nghi, việc hỏi sau khi xác định được đối tượng giúp kiểm tra, đánh giá lại giả thuyết nhận định cũng như củng cố hồ sơ, tài liệu để giải quyết vụ án.

Việc quán triệt và hiểu về mức độ cần thiết của lời khai của người bị buộc tội đối với các vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự theo hướng như trên sẽ giảm bớt tâm lý phụ thuộc vào lời khai để định hướng điều tra; mặt khác, thái độ, tâm lý của người bị buộc tội ở mỗi thời điểm khác nhau chịu ảnh hưởng của các yếu tố khác nhau. Vì vậy, quyền im lặng cần được quy định để người bị buộc tội có thể lựa chọn khai hoặc không khai những tình tiết bất lợi cho mình và người tiến hành tố tụng không còn tâm lý lo ngại không có lời khai sẽ không thể giải quyết vụ án.

Thứ hai, xác định người bị buộc tội có hay không thừa nhận hành vi phạm tội trong quá trình lấy lời khai hay hỏi cung là có cần thiết hay không, trường hợp người bị buộc tội không khai báo hay không thừa nhận thì có thể dựa vào đâu để chứng minh tội phạm và người phạm tội? Điều 98 BLTTHS năm 2015 quy định: “Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án. Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội”. Theo quy định trên, lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ là một trong các chứng cứ được sử dụng để buộc tội, kết tội và phải bảo đảm các thuộc tính của chứng cứ, lời nhận tội đó phải phù hợp với các chứng cứ khác thu thập được trong vụ án như: Biên bản khám nghiệm hiện trường; biên bản khám nghiệm tử thi; lời khai nhân chứng; kết luận giám định; vật chứng thu giữ được… Trường hợp chỉ có duy nhất lời nhận tội của bị can, bị cáo thì không được dùng duy nhất lời khai đó để buộc tội, kết tội họ. Như vậy, dù người bị buộc tội im lặng không trình bày bất cứ nội dung nào hay người bị buộc tội không nhận tội trước hành vi của mình thì thông qua các chứng cứ mà người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thu thập được thể hiện trong hồ sơ vụ án và vật chứng thu giữ vẫn có cơ sở để buộc tội, kết tội họ trước Tòa án.

Thứ ba, xem xét “quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội” của người bị buộc tội trong mối quan hệ với hành vi cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối tại Bộ luật Hình sự. Hiện nay, Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối tại Điều 382. Có thể thấy, chủ thể của tội này là chủ thể đặc biệt, ngoài đáp ứng yêu cầu về độ tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự, chủ thể của tội phạm này chỉ có thể là người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật, người bào chữa. Do đó, người bị buộc tội không thuộc nhóm đối tượng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối. Quy định trên tương thích với quy định trong BLTTHS năm 2015 về quyền của người bị buộc tội trong việc trình bày lời khai, trình bày ý kiến, điều này là phù hợp với nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc xác định sự thật khách quan trong vụ án hình sự, bởi trách nhiệm chứng minh thuộc về cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh mình vô tội.

Thứ tư, dưới góc độ tâm lý, việc im lặng của người bị buộc tội có thể xảy ra trong hai trường hợp: (1) Khi chính họ là người thực hiện hành vi phạm tội nhưng họ không khai và quyền im lặng trong trường hợp này là “vũ khí” tự bảo vệ bản thân vì khi trình bày lời khai nhận tội thì họ đã tự chống lại mình; (2) Khi người bị buộc tội không phải là người thực hiện tội phạm thì quyền im lặng trong trường hợp này sẽ là quyền tất yếu đương nhiên vì thực tế họ không biết về nội dung, tình tiết vụ án để khai. Bên cạnh đó, dưới góc độ biện chứng, giữa hành vi im lặng không đưa ra lời khai, lời trình bày hay người bị buộc tội không thừa nhận hành vi phạm tội đã đưa lại một nguồn thông tin hữu ích cho người tiến hành tố tụng: Vì sao họ lại im lặng?; tại sao họ không thừa nhận hành vi phạm tội với những chứng cứ đã thu thập được?... Việc nghi vấn, đoán định về sự im lặng của người bị buộc tội cũng là một trong những nội dung để xây dựng giả thuyết xác minh, làm rõ trong vụ án. Tuy nhiên, quá trình điều tra, xác minh vẫn cần thiết và kiên trì đấu tranh để lấy lời khai, hỏi cung, bởi thông qua cách phản ứng (trả lời hoặc không trả lời các câu hỏi) cũng cho thấy tâm lý, thái độ của người bị buộc tội đối với những nội dung, tình tiết trong vụ án hình sự.

Có thể khẳng định, việc lấy lời khai, hỏi cung để xác định thái độ nhận tội của người bị buộc tội là việc cần thiết, nhưng nếu họ không nhận tội thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng vẫn hoàn toàn có đủ cơ sở để kết tội họ. Do đó, quy định về quyền im lặng không phải là rào cản đối với hoạt động của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, trái lại, đó còn là việc cần thiết để nâng cao và bảo vệ quyền ở mức độ tối đa đối với người bị buộc tội; đặt ra yêu cầu và đòi hỏi cao hơn trong cách thức tiến hành tố tụng hiện đại, tiến bộ và yêu cầu cao về trình độ, nghiệp vụ của mỗi cơ quan, người tiến hành tố tụng trước yêu cầu xác định sự thật khách quan của vụ án.

3. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định về quyền im lặng trong tố tụng hình sự Việt Nam

Thứ nhất, cần quy định những điều luật cụ thể, riêng biệt về quyền im lặng, và do là quyền nên người bị buộc tội có thể trình bày lời khai vào thời điểm có lợi cho họ hay thời điểm họ mong muốn theo suy nghĩ chủ quan nhằm đạt mục đích cuối cùng là gỡ tội. Việc quy định cụ thể còn giúp cơ quan tố tụng hiểu thống nhất và áp dụng đúng tinh thần quy định về quyền im lặng, đồng thời cũng là cơ sở cho người bị buộc tội quyết định có hay không khai báo với cơ quan tố tụng, bảo vệ hành vi mang tính chất tự buộc tội chính mình trước cơ quan tiến hành tố tụng.

Thứ hai, pháp luật cần quy định rõ ràng rằng lời khai của người bị buộc tội chỉ có giá trị pháp lý sau khi người bị buộc tội được cơ quan tiến hành tố tụng thông báo và giải thích cụ thể các quyền và nghĩa vụ của mình, đặc biệt là quyền im lặng. Điều này là rất quan trọng, bởi pháp luật hiện nay không quy định chính xác thuật ngữ “quyền im lặng”, mà quy định là “quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”. Chính vì vậy, cần có hướng dẫn, giải thích để người bị buộc tội hiểu và thực hiện quyền của mình. Bên cạnh đó, việc quy định giá trị lời khai của người bị buộc tội sau khi được phổ biến và giải thích quyền sẽ là cơ sở, căn cứ để đánh giá tính hợp pháp trong lời khai và cách thức khởi tạo chứng cứ (lời khai).

Thứ ba, xem xét áp dụng nguyên tắc “fruit of poisonous tree” (nguyên tắc đánh giá tính tự nguyện của lời khai - hay nguyên tắc loại trừ chứng cứ bất hợp pháp) liên quan đến quyền im lặng trong việc đánh giá và sử dụng lời khai để buộc tội, kết tội. Theo pháp luật Việt Nam, lời khai là chứng cứ để buộc tội, kết tội phải bảo đảm ba thuộc tính của chứng cứ, nếu lời khai không tuân thủ quy định của pháp luật thì lời khai không được sử dụng để kết tội. Vấn đề đặt ra là: Quy định của pháp luật hiện nay chú trọng nhiều đến việc tuân thủ pháp luật là có thể được xem xét để sử dụng làm chứng cứ, mà chưa chú trọng đến quá trình khởi tạo và hoàn thiện chứng cứ, đối với chứng cứ là lời khai thì việc khởi tạo chứng cứ phải bắt nguồn từ tính tự nguyện của lời khai.

Thứ tư, như đã phân tích, lời khai hay lời trình bày ý kiến của người bị buộc tội chỉ là một trong các chứng cứ trong hồ sơ vụ án, nên những chứng cứ khác thu thập được thông qua lời khai vi phạm pháp luật thì chỉ lời khai không được sử dụng, còn các chứng cứ khác được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục vẫn được xem xét để buộc tội, kết tội. Việc quy định như trên có thể dẫn đến tình trạng lấy lời khai, hỏi cung vi phạm pháp luật, nhưng vẫn thu thập được các chứng cứ khác phục vụ giải quyết vụ án. Như vậy, quyền con người đã bị xâm phạm và người bị buộc tội vẫn có thể bị kết tội. Do vậy, các chứng cứ được thu thập từ lời khai vi phạm tố tụng cần được quy định là vô hiệu, trừ khi chứng minh được việc thu thập lời khai bất hợp pháp không phải do lỗi của cơ quan tiến hành tố tụng.

Thứ năm, hiện nay BLTTHS năm 2015 chỉ quy định 05 chủ thể không phải tự nhận mình có tội hay đưa ra các lời khai chống lại mình là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Một vấn đề đặt ra là: Người tham gia tố tụng khác (như người làm chứng) trong vụ án này có thể đồng thời là người bị buộc tội ở vụ án khác, do đó, nếu lời khai của người làm chứng trong vụ án này chứa đựng thông tin dùng để buộc tội họ trong vụ án khác thì cũng chưa có cơ chế bảo đảm quyền đối với họ. Do đó, cần cân nhắc trao quyền im lặng cho các chủ thể trên để được từ chối trả lời một số câu hỏi nhất định, kèm theo nghĩa vụ chứng minh lý do cho sự từ chối đó. Cơ quan tiến hành tố tụng quyết định việc chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu sử dụng quyền im lặng của họ. Trong trường hợp không chấp nhận, cần đảm bảo rằng lời khai nếu được thu thập, sử dụng trong vụ án này thì không được dùng làm chứng cứ trong vụ án khác.

Thứ sáu, song song với việc thừa nhận người bị buộc tội có quyền im lặng vẫn nên khuyến khích họ khai báo về các tình tiết vụ án. Pháp luật Việt Nam quy định tình tiết “người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”9 được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong quá trình giải quyết vụ án, nhưng thực tế mức giảm nhẹ trách nhiệm hình sự ở mỗi vụ án còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Do vậy, bên cạnh việc quy định cụ thể, chi tiết quyền im lặng của người bị buộc tội, cần có hướng dẫn về mức độ khoan hồng đối với tình tiết này, đặc biệt trong giai đoạn điều tra, truy tố khi người bị buộc tội mới bị bắt giữ, lượng thông tin về vụ án còn mơ hồ thì cần có mức độ khoan hồng đáng kể cho họ, góp phần thúc đẩy quá trình giải quyết vụ án.

Thứ bảy, khi xuất hiện hành vi vi phạm quyền được luật định, trong đó có quyền được thông báo, giải thích về quyền im lặng, BLTTHS năm 2015 đã trao cho người bị buộc tội quyền khiếu nại về hành vi vi phạm này của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Vấn đề phát sinh ở đây là: (1) Quá trình giải quyết khiếu nại theo tố tụng hình sự không mặc nhiên làm tạm dừng các hoạt động tố tụng liên quan đến vụ án nên chứng cứ thu thập được trong khi giải quyết khiếu nại vụ án không bị loại trừ; (2) Khi nội dung khiếu nại chính là việc khiếu nại thời điểm người bị buộc tội biết về sự vi phạm quyền im lặng thì khi đó họ đã bị vi phạm quyền im lặng do thời điểm thông báo chậm trễ của cơ quan tiến hành tố tụng về quyền im lặng, mà không phải không thông báo và giải thích quyền, người bị buộc tội đã cung cấp lời khai tự buộc tội chính mình bởi những lời khai trước đó, nên việc khiếu nại này không làm mất đi các chứng cứ đã có trước; mặt khác, người bị buộc tội khó có căn cứ để chứng minh nội dung khiếu nại về việc chậm trễ trong việc thông báo quyền im lặng, do đó khó có thể chấp nhận hành vi vi phạm quyền im lặng như nêu trên và như vậy, chứng cứ đã thu thập từ lời khai trước đó vẫn được sử dụng để buộc tội, kết tội người bị buộc tội. Vì vậy, để bảo đảm tính công bằng, các chứng cứ thu thập được trong quá trình giải quyết khiếu nại và bảo đảm quyền im lặng không bị vi phạm do việc thông báo và giải thích chậm trễ phải được cụ thể hóa bằng những quy định về đánh giá chứng cứ có được do vi phạm quyền im lặng sẽ bị vô hiệu.

Trần Trọng Hoàn - Phan Xuân Linh

Theo Tạp chí Kiểm sát in số 14/2024