Quyền tư pháp và tổ chức, hoạt động của VKSND trong điều kiện xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam

Ngày đăng : 16:46, 21/04/2025

(Kiemsat.vn) - Viện kiểm sát được sinh ra với chức năng kiểm tra và giám sát pháp luật, đảm bảo pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất. Điều này rất phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam, đó là thượng tôn pháp luật. Quá trình xây dựng pháp luật cũng như tuân thủ pháp luật đều được giám sát đảm bảo tăng cường pháp chế.

Viện kiểm sát được sinh ra với chức năng kiểm tra và giám sát pháp luật, đảm bảo pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất. Điều này rất phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đó là thượng tôn pháp luật. Quá trình xây dựng pháp luật cũng như tuân thủ pháp luật đều được giám sát đảm bảo tăng cường pháp chế. Vì vậy, cần giao lại cho Viện kiểm sát các chức năng, nhiệm vụ như khi Viện kiểm sát được sinh ra. Mặt khác, ở Việt Nam mọi hoạt động đều chịu sự lãnh đạo của Đảng nên Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao - người đứng đầu trong cơ quan Viện kiểm sát cũng cần được giao vị trí quan trọng trong Đảng.

1. Nhận thức về quyền tư pháp và kiểm sát hoạt động tư pháp

1.1. Nhận thức về quyền tư pháp

Để duy trì sự ổn định và phát triển xã hội, bất cứ quốc gia nào trên thế giới cũng cần tổ chức, thực hiện quyền lực Nhà nước một cách khoa học, hợp lý nhất, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội, hình thức chính thể, trong từng giai đoạn phát triển nhất định. Một số quốc gia xác định quyền lực Nhà nước chỉ bao gồm quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Một số khác xác định ngoài ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp còn có quyền giám sát (nhằm kiểm soát quyền lực). Nhưng tùy từng hình thức chính thể khác nhau mà các quốc gia có cách thức tổ chức thực hiện các quyền này khác nhau dưới dạng tập quyền hay phân quyền, cũng như trao các quyền này cho các cơ quan Nhà nước theo cách khác nhau.

Kể từ khi được thành lập (năm 1945) đến nay, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn được xây dựng, củng cố, phát triển theo hình thức tập quyền, mọi quyền lực Nhà nước đều thuộc về Nhân dân và tập trung vào Quốc hội, cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, do Nhân dân bầu ra, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân. Trên cơ sở sự thống nhất quyền lực nhà nước này, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước như Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao. Với tư cách là cơ quan quyền lực cao nhất, Quốc hội không thực hiện toàn bộ các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và giám sát mà chỉ thực hiện quyền lập pháp bằng xây dựng Hiến pháp, pháp luật, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Quyền hành pháp được giao cho Chính phủ với tư cách là cơ quan hành chính cao nhất, cơ quan chấp hành của Quốc hội. Tòa án nhân dân tối cao được xác định là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.

Như vậy, có thể thấy, quyền lập pháp, hành pháp và thực hiện quyền lập pháp, hành pháp đã được quy định một cách tường minh và không còn cách hiểu khác trong quy định của Hiến pháp; còn quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp thì vẫn có những nhận thức khác nhau, đó là: Thứ nhất, quyền tư pháp được hiểu là quyền tài phán thông qua hoạt động xét xử của Tòa án và chỉ duy nhất Tòa án thực hiện quyền tư pháp; thứ hai, quyền tư pháp là quyền lực nhà nước sử dụng trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ đời sống xã hội, quyền truy cứu trách nhiệm hình sự mà kết thúc bằng phán quyết của Tòa án; Tòa án thực hiện quyền tư pháp không có nghĩa quyền tư pháp phát sinh tại thời điểm nó được thực hiện mà quyền này đã phát sinh từ trước đó (khi có tranh chấp xảy ra, khi tội phạm được thực hiện) bởi khi đó đã phát sinh quyền can thiệp, giải quyết của Nhà nước. Do đó, còn có các cơ quan khác ngoài Tòa án nhân dân cũng có thể có quyền này và kết thúc cuối cùng, trọng tâm nhất của quyền tư pháp được thể hiện thông qua quyền xét xử. Thực hiện quyền tư pháp có nội hàm không đồng nhất với thực hiện quyền xét xử, mà rộng hơn nội hàm của thực hiện quyền xét xử. Chúng tôi đồng tình với cách hiểu thứ hai vì chỉ với cách hiểu này mới có thể lý giải được VKSND thực hiện chức năng hiến định, kiểm sát hoạt động tư pháp chính là kiểm sát hoạt động của nhiều cơ quan khác nhau liên quan đến quyền tư pháp như Cơ quan điều tra, Cơ quan quản lý việc giam, giữ, cơ quan Thi hành án... mà không chỉ riêng hoạt động xét xử của Tòa án.

Để hiểu được bản chất của hoạt động tư pháp, trước hết cùng tìm hiểu khái niệm về tư pháp. Theo nghĩa Hán Việt, “tư pháp” là trông coi, bảo vệ pháp luật. Do vậy, chúng tôi đồng tình với quan điểm cho rằng “tư pháp” được quan niệm, hiểu với nghĩa pháp lý chung nhất như là một ý tưởng về một nền công lý, đòi hỏi việc giải quyết những tranh chấp xảy ra trong xã hội phải đúng pháp luật, phù hợp với lẽ công bằng, bảo đảm lòng tin của nhân dân và xã hội, góp phần duy trì trật tự pháp luật, bảo đảm sự an toàn pháp lý cho cá nhân, sự ổn định và phát triển của xã hội.

Xét theo khía cạnh thể chế nhà nước, ở các nước thực hiện nguyên tắc phân quyền trong tổ chức bộ máy nhà nước, thì tư pháp được hiểu là một trong ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó quyền tư pháp được hiểu đồng nghĩa với quyền xét xử chỉ do Tòa án thực hiện. Vì vậy, ở các nước này nói đến cơ quan tư pháp là nói đến Tòa án.

Ở nước ta, quyền lực nhà nước thống nhất nhưng có sự phân công và phối hợp giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Như vậy, quyền tư pháp là một trong ba quyền hợp thành quyền lực nhà nước, được hiểu là hoạt động xét xử của các Tòa án và những hoạt động của cơ quan nhà nước khác trực tiếp liên quan đến hoạt động xét xử của Tòa án như điều tra, truy tố, bổ trợ tư pháp nhằm bảo vệ chế độ, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, lợi ích hợp pháp của công dân, tôn trọng và duy trì công lý. Để thực hiện quyền tư pháp đó, hệ thống cơ quan tư pháp Việt Nam bao gồm: Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, cơ quan Thi hành án và các tổ chức tư pháp bổ trợ (như luật sư, công chứng, giám định tư pháp, tư vấn pháp luật...). Trong đó, Tòa án nhân dân là nơi biểu hiện tập trung quyền tư pháp, sử dụng công khai các kết quả của hoạt động điều tra, công tố, bào chữa, giám định tư pháp, thông qua các thủ tục tố tụng do luật định để đưa ra phán quyết cuối cùng thể hiện quyền lực nhà nước. Hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân cũng là nơi thể hiện chất lượng hoạt động và uy tín của hệ thống cơ quan tư pháp nói riêng và của toàn bộ hệ thống cơ quan nhà nước nói chung.

- Về quyền tư pháp, chúng tôi không đồng tình với quan điểm cho rằng: “Tư pháp - Tòa án chính là thành trì bảo vệ công lý”, “Tư pháp - Tòa án được tổ chức theo các đơn vị hành chính”, “quyền tư pháp (judicial power) là quyền được trao cho Tòa án và các thẩm quyền xét xử và quyết định các vụ việc và đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc thi hành đối với các vụ việc ấy...”, “Tư pháp là quyền xét xử các tranh chấp pháp lý dựa trên quy định của pháp luật” - Với cách nhận thức này, đã đồng nhất tư pháp với Tòa án, đồng nhất quyền tư pháp với thực hiện quyền tư pháp.

Chúng tôi thống nhất với quan điểm cho rằng: Quyền tư pháp là một dạng quyền lực nhà nước có nội hàm được thể hiện:

Quyền tư pháp là quyền phán quyết về các vi phạm pháp luật, xử lý người vi phạm pháp luật bằng chế tài nhà nước, các biện pháp cưỡng chế được tổ chức thi hành bằng bộ máy cưỡng chế nhà nước hoặc do Nhà nước ủy quyền. Khi tổ chức thi hành pháp luật quyền hành pháp mà phát hiện vi phạm pháp luật thì khởi kiện người vi phạm ra trước cơ quan tư pháp để xử lý.

Quyền tư pháp là quyền giải quyết, phán quyết về các tranh chấp pháp lý xảy ra trong xã hội. Đó có thể là các tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân; tranh chấp giữa cá nhân với cơ quan, tổ chức; tranh chấp giữa các cơ quan, tổ chức với nhau. Nguyên tắc pháp quyền đòi hỏi các cơ quan thực hiện quyền tư pháp không thể đứng ngoài các tranh chấp xảy ra trong xã hội. Khi các bên có tranh chấp và giữa các bên không có được sự thỏa thuận, hòa giải và có một bên khởi kiện, thì Tòa án không thể không can thiệp bằng quyền lực của mình. Tòa án không thể nại ra việc không có luật điều chỉnh để từ chối giải quyết các tranh chấp đó. Có như vậy, quyền con người, quyền công dân mới được bảo vệ; trật tự pháp luật mới được duy trì.

1.2. Kiểm sát hoạt động tư pháp

Theo Từ điển Tiếng Việt “hoạt động” có nghĩa là tiến hành những việc làm có quan hệ chặt chẽ với nhau nhằm một mục đích nhất định trong đời sống xã hội; vận động, cử động nhằm một mục đích nhất định nào đó; thực hiện một chức năng nhất định nào đó trong một chỉnh thể; tạo ra một tác dụng nào đó. Như vậy, cùng với những nội dung nêu trên về tư pháp, quyền tư pháp, có thể đưa ra khái niệm về “hoạt động tư pháp” là những hoạt động của các chủ thể khác nhau như Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, cơ quan Thi hành án, các tổ chức tư pháp bổ trợ (luật sư, công chứng, giám định tư pháp, tư vấn pháp luật...), cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan trực tiếp đến việc thực hiện quyền phán quyết của Tòa án đối với các vi phạm, tội phạm hoặc quyền giải quyết, phán quyết về các tranh chấp pháp lý xảy ra trong xã hội. Hoạt động tư pháp là phương thức để quyền tư pháp được triển khai, thực hiện trên thực tế.

Để duy trì một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, quyền con người, quyền công dân luôn được đề cao và tôn trọng thì quyền lực trong xã hội phải luôn được kiểm soát, như quan điểm cho rằng: “Cần phải kiểm soát quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước thật chặt chẽ để bảo đảm quyền lực được thực hiện đúng, có hiệu quả, không bị lạm dụng, lợi dụng vào các mục đích không hợp pháp, không chính đáng”. Bởi vậy, quyền tư pháp với ý nghĩa là một dạng quyền lực nhà nước, do Tòa án thực hiện, tất yếu phải được kiểm soát chặt chẽ, thường xuyên.

Từ những phân tích trên, chúng tôi cho rằng: “Kiểm sát hoạt động tư pháp” là một trong những nội dung quan trọng để thực hiện việc kiểm soát quyền lực tư pháp do hệ thống cơ quan Viện kiểm sát thực hiện, thông qua các quyền năng pháp lý được pháp luật quy định. Viện kiểm sát bảo đảm tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật.

2. Định hướng về cải cách tư pháp và tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong điều kiện xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

2.1. Định hướng về cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 49) tư tưởng và định hướng chỉ đạo cho Nhà nước xây dựng và hoàn thiện các thể chế về cải cách tư pháp. Trong đó, đã chỉ rõ mục tiêu của cải cách tư pháp là: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực”.

Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Để thực hiện mục tiêu này của Hiến pháp, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27) đã có những định hướng về xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp với quan điểm được xác định:

- Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới và bảo đảm sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ; giữa nhà nước, thị trường và xã hội; giữa thực hành dân chủ XHCN và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị; luôn phải đặt trong tổng thể công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, kiên trì, hiệu quả; thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

- Thực hiện nhất quán nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp dưới sự giám sát của Nhân dân.

- Bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức XHCN; thể chế hóa kịp thời, đầy đủ và tổ chức thực hiện hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng; lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước; Nhà nước tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

- Bám sát thực tiễn đất nước và xu thế phát triển của thời đại, kế thừa những thành tựu đã đạt được, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh quốc gia với sức mạnh quốc tế; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia, chế độ XHCN.

- Bảo đảm tổng thể, đồng bộ, liên thông giữa đổi mới lập pháp, cải cách hành chính, cải cách tư pháp; kết hợp hài hòa giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát triển; tiến hành khẩn trương, nghiêm minh, nhất quán, có trọng tâm, trọng điểm và lộ trình, bước đi vững chắc. Những vấn đề thực tiễn đòi hỏi, đã rõ, được thực tiễn chứng minh là đúng, có sự thống nhất cao thì kiên quyết thực hiện; những vấn đề chưa rõ, còn nhiều ý kiến khác nhau thì tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, thực hiện thí điểm khi cơ quan có thẩm quyền cho phép; những chủ trương đã thực hiện, nhưng không phù hợp thì nghiên cứu điều chỉnh, sửa đổi kịp thời.

 Liên quan đến cải cách tư pháp, Nghị quyết số 27 xác định mục tiêu: “Hoàn thành cơ bản việc xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân”. Trong đó có các giải pháp liên quan đến Tòa án nhân dân như: “Đẩy mạnh cải cách tư pháp, bảo đảm tính độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.

Có thể thấy, trong suốt quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị và xây dựng Nghị quyết số 27, nội hàm “quyền tư pháp” vẫn chưa được làm sáng rõ, mặc dù về mặt tư tưởng, Nghị quyết số 27 hoàn toàn thống nhất với Nghị quyết số 49.

2.2. Những định hướng quan trọng về cải cách tư pháp liên quan trực tiếp đến tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đề ra chủ trương xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, kiện toàn và đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước, trong đó có các cơ quan tư pháp để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc, cụ thể là: “Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan và cán bộ tư pháp trong công tác điều tra, bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử, thi hành án, không để xảy ra những trường hợp oan, sai. VKSND thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp”.

Đến Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khóa IX, chủ trương đổi mới hoạt động của VKSND tiếp tục được đề cập: “Về Viện kiểm sát nhân dân, cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân theo hướng Viện kiểm sát nhân dân chỉ thực hiện quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, không thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan, tổ chức và cá nhân”.

Để khắc phục tình trạng oan, sai rất nghiêm trọng xảy ra trong tố tụng hình sự và đề cao trách nhiệm pháp lý của VKSND đối với công tác bắt, giam, giữ, ngày 21/3/2000, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 53-CT/TW về những hoạt động cấp bách trong hoạt động tư pháp, xác định trách nhiệm của VKSND trong việc chống oan, sai và bỏ lọt tội phạm. Đây là tiền thân để ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, trong đó, có đề cập đến nhiệm vụ tổ chức và hoạt động của VKSND, đó là: “Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ. Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác... Viện kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về những oan, sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình”. Nghị quyết cũng nhấn mạnh: “Tổ chức, sắp xếp lại các đơn vị trong Viện kiểm sát các cấp để thực hiện tốt chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp...”.

Nghị quyết số 49 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định mục tiêu của chiến lược cải cách tư pháp nhằm: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Về chức năng, nhiệm vụ của VKSND, Nghị quyết đề cập: “Trước mắt Viện kiểm sát giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. VKSND được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án. Nghiên cứu việc chuyển Viện kiểm sát thành Viện công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra”.

Nhằm thúc đẩy việc cải cách tư pháp, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã xác định chủ trương: “Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người. Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ...”.

Nghị quyết số 27-NQ/TW liên quan đến VKSND thể hiện: “Hoàn thiện thể chế để VKSND thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp”.

2.3. Những yêu cầu đặt ra đối với tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tình hình mới hiện nay

Quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của VKSND giai đoạn mới để đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đặt ra những yêu cầu quan trọng đòi hỏi phải được đáp ứng cụ thể như sau:

Một là, tổ chức và hoạt động của VKSND phải đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện của Đảng, dựa trên nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, phát huy vai trò của VKSND trong bảo vệ quyền con người, quyền công dân và bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; thực hiện chủ trương, định hướng cốt lõi của Đảng trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII và các nghị quyết, kết luận của Đảng về cải cách tư pháp.

Hai là, các nhiệm vụ, giải pháp về tổ chức và hoạt động của VKSND phải bảo đảm tính khoa học, tính chính trị, pháp lý và phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế, xã hội của đất nước; được tiến hành một cách đồng bộ trong tổng thể cải cách bộ máy nhà nước theo yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Việc đổi mới phải có trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình thích hợp, bảo đảm tính liên tục, có kế thừa và phát huy kinh nghiệm cải cách tư pháp đã đạt được, khắc phục được những hạn chế, tồn tại trong thực tiễn; tập trung giải quyết những nhiệm vụ cải cách tư pháp chưa hoàn thành và còn phù hợp.

Ba là, đổi mới tổ chức và hoạt động của VKSND cần được nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc, hợp lý các kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố/kiểm sát ở các nước có nền tư pháp tiến bộ, hiện đại trên thế giới, phù hợp với thể chế chính trị, điều kiện kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là các nước có thể chế chính trị, kinh tế - xã hội tương đồng với nước ta (như Trung Quốc).

Bốn là, tổ chức và hoạt động của VKSND phải bảo đảm sự thống nhất về tư tưởng, nhận thức, hành động trong toàn hệ thống VKSND; tăng cường tuyên truyền, quán triệt tạo sự thống nhất trong cấp ủy, lãnh đạo VKSND các cấp và sự đồng thuận của xã hội.

Năm là, tổ chức và hoạt động của VKSND phải luôn đảm bảo nâng cao năng lực, hiệu quả, tính chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân trong tổ chức và hoạt động của VKSND; tăng cường vai trò, trách nhiệm của VKSND trong bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân; đáp ứng tốt yêu cầu phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với tội phạm và vi phạm pháp luật; góp phần giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các loại tranh chấp, khiếu kiện theo luật định; xây dựng được đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên, công chức khác có chuyên môn nghiệp vụ cao, chuyên nghiệp, kinh nghiệm, kiến thức về kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin tốt và đảm bảo tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao; tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và của Nhân dân đối với hoạt động của VKSND.

3. Một số đề xuất, kiến nghị

Chúng tôi cho rằng, về mặt lý luận cần hiểu thống nhất một số khái niệm sau:

Thứ nhất, “quyền tư pháp” là một dạng quyền lực nhà nước có nội hàm chính là quyền phán quyết đối với các vi phạm pháp luật, xử lý người vi phạm pháp luật bằng chế tài nhà nước, các biện pháp cưỡng chế đó được tổ chức thi hành bằng bộ máy cưỡng chế nhà nước hoặc do nhà nước ủy quyền thông qua các cơ quan tư pháp mà trọng tâm và cuối cùng là hoạt động xét xử của Tòa án. Khi tổ chức thi hành pháp luật quyền hành pháp mà phát hiện việc vi phạm pháp luật thì khởi kiện người vi phạm ra trước cơ quan tư pháp để xử lý. Quyền tư pháp là quyền giải quyết, phán quyết về các tranh chấp pháp lý xảy ra trong xã hội. Đó có thể là các tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân; tranh chấp giữa cá nhân với cơ quan, tổ  chức; tranh chấp giữa các cơ quan, tổ chức với nhau. Nguyên tắc pháp quyền đòi hỏi các cơ quan thực hiện quyền tư pháp không thể đứng ngoài các tranh chấp xảy ra trong xã hội. Khi các bên có tranh chấp và giữa các bên không có được sự thỏa thuận, hòa giải và có một bên khởi kiện, thì Tòa án không thể không can thiệp bằng quyền lực của mình. Tòa án không thể nại ra việc không có luật điều chỉnh để từ chối giải quyết các tranh chấp đó. Có như vậy, quyền con người, quyền công dân mới được bảo vệ; trật tự pháp luật mới được duy trì.

Thứ hai, “hoạt động tư pháp” là những hoạt động của các chủ thể khác nhau như Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, cơ quan Thi hành án, các tổ chức tư pháp bổ trợ (luật sư, công chứng, giám định tư pháp, tư vấn pháp luật...), cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan trực tiếp đến việc thực hiện quyền phán quyết của Tòa án đối với các vi phạm, tội phạm hoặc quyền giải quyết, phán quyết về các tranh chấp pháp lý xảy ra trong xã hội. Hoạt động tư pháp là phương thức để quyền tư pháp được triển khai, thực hiện trên thực tế.

Thứ ba, “kiểm sát hoạt động tư pháp” là một trong những nội dung quan trọng để thực hiện việc kiểm soát quyền lực tư pháp do hệ thống cơ quan Viện kiểm sát thực hiện, thông qua các quyền năng pháp lý được pháp luật quy định. Viện kiểm sát bảo đảm tính hợp pháp của các hành vi, quyết định do cơ quan, tổ chức, cá nhân phát sinh trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật.

Kể từ năm 2001, Viện kiểm sát không thực hiện chức năng kiểm sát chung đã không còn một cơ chế giám sát từ bên ngoài, thường xuyên, liên tục ở các cấp hành chính đối với các cơ quan hành pháp, dẫn đến tình trạng nhiều vụ “đại án” xảy ra với quy mô ngày càng lớn, tính chất ngày một đa dạng, phức tạp, gây hậu quả ngày càng nghiêm trọng. Chúng tôi cho rằng cần củng cố và tăng cường hơn nữa cơ chế giám sát thường xuyên từ bên ngoài đối với các cơ quan hành pháp trong việc chấp hành Hiến pháp và pháp luật một cách nghiêm chỉnh và thống nhất trong phạm vi cả nước, trên tất cả các lĩnh vực. Trong đó, sớm xây dựng cơ chế kiểm soát chặt chẽ hơn đối với việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan hành pháp, đảm bảo hệ thống văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan hành pháp ban hành phải thống nhất với các văn bản luật và Hiến pháp, nếu xảy ra việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật trái với quy định của luật và Hiến pháp thì phải được nhanh chóng, kịp thời phát hiện, hủy bỏ, hạn chế tối đa gây hậu quả, tác động xấu tới xã hội. Đề nghị phải có tổng kết, đánh giá về hoạt động của Kiểm sát viên trong thời gian qua và nghiên cứu một cách đầy đủ về việc giữ chức năng kiểm sát chung như thế nào, giao cho cơ quan Viện kiểm sát đảm nhiệm để phát huy hiệu quả phục vụ thiết thực cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Với chức năng hiến định là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp nên các công việc của ngành Kiểm sát nhân dân thường gắn bó mật thiết, sâu sắc với các nhiệm vụ chính trị và có tác động đến toàn bộ đời sống xã hội. Cùng với nguyên tắc tổ chức, hoạt động tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành giúp ngành kiểm sát có khả năng dễ dàng huy động toàn ngành thực hiện, phục vụ nhiệm vụ chính trị một cách triệt để. Thực tiễn thời gian qua đã chứng minh thông qua việc lãnh đạo có hiệu quả việc thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, đã góp phần không nhỏ trong phát hiện, xử lý nhiều vụ “đại án” trên phạm vi cả nước. Do vậy, chúng tôi kiến nghị với Đảng và Nhà nước tiếp tục chỉ đạo xây dựng và hoàn thiện cơ chế để những vi phạm mà Viện kiểm sát phát hiện trong quá trình thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp phải được khắc phục, sửa chữa triệt để và nhanh chóng. Có cơ chế để Viện kiểm sát có thể kiểm soát đối với những trường hợp vi phạm hành chính gây nguy hiểm cho xã hội gần với ranh giới của tội phạm để có thể phát hiện một cách có hiệu quả những trường hợp cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính giữ lại để xử lý hành chính đối với những hành vi phạm tội.

Tiếp tục nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, truy tố; nâng cao chất lượng và kỹ năng tranh tụng của Kiểm sát viên tại các phiên tòa; thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, trong đó chú trọng nguyên tắc “suy đoán vô tội”, không làm oan sai, không bỏ lọt tội phạm. Thận trọng, không hình sự hóa các quan hệ kinh tế, dân sự, khoan hồng với những người ăn năn hối cải, tích cực khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại; thực hiện đồng bộ các biện pháp quyết liệt đấu tranh, xử lý kịp thời, nghiêm minh nhiều vụ án trọng điểm về tham nhũng, kinh tế, chức vụ, nâng cao tỉ lệ thu hồi tài sản và khắc phục hậu quả thiệt hại, bảo đảm đúng quy định của pháp luật, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao. Công tác kiểm sát các hoạt động tư pháp ngày càng sâu sát, hiệu quả hơn; số lượng, chất lượng các bản kiến nghị, kháng nghị tiếp tục được nâng cao, góp phần bảo đảm các hoạt động tư pháp tuân thủ pháp luật.

Xây dựng, hoàn thiện thể chế; hoàn thiện cơ chế tăng cường trách nhiệm công tố trong giải quyết các vụ án hình sự; tăng cường kiểm soát quyền lực để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động tư pháp nói chung và quyền quyết định việc buộc tội của Viện kiểm sát nói riêng; khẩn trương tổng kết thực tiễn, phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao nghiên cứu hoàn thiện quy định pháp luật về cơ chế bảo vệ lợi ích công và nhóm dễ bị tổn thương nhưng chưa có người đứng ra bảo vệ theo tinh thần Nghị quyết số 27-NQ/TW; tiếp tục kiện toàn lực lượng và triển khai thực hiện công tác giám định theo quy định của Luật giám định tư pháp. Tăng cường hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, nhất là tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có yếu tố nước ngoài; thực hiện tốt vai trò cơ quan đầu mối Trung ương trong tương trợ tư pháp hình sự; chủ động, tích cực trao đổi, đàm phán, ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp hình sự và trao đổi kinh nghiệm với Viện kiểm sát, cơ quan công tố các nước trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

Để tăng cường công tố thì không thể thoát ly việc tăng cường vai trò của Viện kiểm sát trong việc trực tiếp tiến hành điều tra đối với các vụ án hình sự mà Cơ quan điều tra không thực hiện điều tra theo yêu cầu của Viện kiểm sát để có thể buộc tội được các bị can tại Tòa án hoặc những vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp làm ảnh hưởng đến việc phát hiện, xử lý tội phạm. Tuy nhiên trên thực tiễn, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định thẩm quyền điều tra tội phạm của Viện kiểm sát chỉ thực hiện điều tra đối với các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp mà không thực hiện điều tra đối với các trường hợp do Viện trưởng VKSND quyết định là chưa phù hợp với chức năng của Viện kiểm sát, chủ thể thực hành quyền công tố; không theo xu hướng chung mà các nước có nền tư pháp tiên tiến trên thế giới thực hiện. Mặt khác, qua thực tiễn cũng cho thấy, trong trường hợp cần thiết thì Viện kiểm sát sẽ trực tiếp tiến hành điều tra như quy định của Luật tổ chức VKSND năm 1992 sẽ đảm bảo khách quan trong trường hợp Cơ quan điều tra đã thực hiện không được, không đúng.

Để xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả hơn dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam, với bản chất Nhà nước của dân, do dân, vì dân, mọi quyền lực đều thuộc về Nhân dân, tập trung vào Quốc hội, nhưng có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng thì cần quan tâm nghiên cứu về thiết chế Viện kiểm sát. Viện kiểm sát được sinh ra với chức năng kiểm tra và giám sát pháp luật, đảm bảo pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất. Điều này rất phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam, đó là thượng tôn pháp luật. Vì vậy, quá trình xây dựng pháp luật cũng như tuân thủ pháp luật đều được giám sát đảm bảo tăng cường pháp chế. Do đó, cần giao lại cho Viện kiểm sát các chức năng nhiệm vụ như khi Viện kiểm sát được sinh ra. Mặt khác, ở Việt Nam, mọi hoạt động đều chịu sự lãnh đạo của Đảng nên Viện trưởng VKSND tối cao, người đứng đầu trong cơ quan Viện kiểm sát cũng cần được giao vị trí quan trọng trong Đảng.

Nguyễn Đức Hạnh

Theo Tạp chí Kiểm sát in số 11/2024