Về hậu quả pháp lý của trường hợp yêu cầu thi hành án dân sự đã hết thời hiệu yêu cầu thi hành án
Ngày đăng : 16:43, 12/03/2025
Trong nội dung của bản án hình sự kết tội bị cáo, ngoài các nội dung Tòa án tuyên bị cáo có tội, tội danh theo điều khoản của Bộ luật Hình sự, hình phạt và các biện pháp tư pháp áp dụng với bị cáo thì còn có những nội dung khác như việc xử lý vật chứng, việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, án phí (gồm án phí hình sự, án phí dân sự)... Có nhiều trường hợp người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt chính (ví dụ hình phạt tù có thời hạn), nhưng vì các lý do khác nhau nên họ chưa chấp hành xong phần nội dung của bản án xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phần trách nhiệm bồi thường thiệt hại này cũng đã hết thời hiệu yêu cầu thi hành án theo quy định của Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 (gọi tắt là Luật THADS năm 2008). Nếu sau đó, người này tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội thì các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ phải xác định: Bản án trước đó đối với người phạm tội đã được xóa án tích hay chưa để xem xét họ có thuộc trường hợp tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm? Có quan điểm cho rằng, vì đã hết thời hiệu yêu cầu thi hành án nên phần bản án hình sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại nêu trên đương nhiên không phải thi hành án nữa, tức phải coi là họ đã chấp hành xong nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, do vậy đã đủ một trong các điều kiện để xóa án tích với bản án này. Tuy nhiên, quan điểm khác lại cho rằng, người phải thi hành án chưa thi hành xong thì phải tiếp tục thi hành, do vậy, chưa đủ điều kiện để xem xét việc xóa án tích.
Việc xác định rõ trường hợp đã hết thời hiệu yêu cầu thi hành án thì người phải THADS có được xác định là đã thi hành xong hay họ vẫn bị coi là chưa chấp hành xong phần nghĩa vụ này trong bản án, quyết định hình sự của Tòa án không chỉ có ý nghĩa trong việc xác định việc xóa án tích để làm căn cứ xác định có hay không tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm mà còn có ý nghĩa trong việc xác định điều kiện để người phải thi hành án là phạm nhân có đủ điều kiện xem xét tha tù trước thời hạn hay không.
Khi trả lời thỉnh thị của các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng: “Hiện nay pháp luật chưa có quy định cụ thể trường hợp đã hết thời hiệu yêu cầu THADS (đối với trường hợp THADS theo yêu cầu của người được thi hành án hoặc yêu cầu của người phải thi hành án) có được coi là “đã chấp hành xong” các quyết định khác của bản án hình sự hay không hoặc có được coi là đủ điều kiện để đương nhiên xóa án tích theo Điều 70 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 hay không. Pháp luật chỉ có quy định về thời hiệu yêu cầu thi hành án đối với trường hợp thi hành trách nhiệm bồi thường cho bị hại, theo đó, “thời hiệu yêu cầu thi hành án” là thời hạn mà người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan THADS tổ chức thi hành án; hết thời hạn đó thì mất quyền yêu cầu cơ quan THADS tổ chức thi hành án theo quy định của Luật THADS; đồng thời trường hợp hết thời hiệu yêu cầu thi hành án là một trong những trường hợp cơ quan THADS từ chối yêu cầu thi hành án. Do vậy, căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 70 BLHS năm 2015, khoản 5 Điều 3, Điều 30, điểm c khoản 5 Điều 31 Luật THADS năm 2014 để xem xét có thỏa mãn điều kiện hết thời hiệu yêu cầu thi hành án, được đương nhiên xóa án tích”.
Trong khi đó, Tòa án nhân dân tối cao cho rằng: “Theo quy định của Luật THADS thì trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan THADS có thẩm quyền ra quyết định thi hành án. Như vậy, Luật THADS đã dành nhiều thời gian để người phải THADS chủ động yêu cầu thi hành án. Mặt khác, tại Điều 70 BLHS năm 2015 quy định các điều kiện đương nhiên được xóa án tích, trong đó có điều kiện người bị kết án nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách của án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án. Như vậy, BLHS không quy định trường hợp loại trừ việc người bị kết án chưa chấp hành xong hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án với bất kỳ lý do gì. Do vậy, người bị kết án nếu hết thời hiệu yêu cầu THADS mà chưa thực hiện xong nghĩa vụ thì cũng được coi là chưa chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án. Trong trường hợp này, người bị kết án không đương nhiên được xóa án tích theo quy định tại Điều 70 Bộ luật Hình sự”.
Về vấn đề trên, tác giả cho rằng: Theo quy định của pháp luật hiện hành, bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì phải được thi hành, trừ một số trường hợp bản án, quyết định được thi hành ngay (theo Điều 363 Bộ luật Tố tụng hình sự hoặc theo khoản 2 Điều 3 Luật THADS năm 2008). Việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án hoặc do các bên đương sự tự nguyện thi hành, hoặc được tổ chức thi hành theo trình tự, thủ tục thi hành án hình sự hoặc theo trình tự, thủ tục THADS và hoặc theo thủ tục thi hành án hành chính. Trình tự, thủ tục thi hành án hình sự chịu sự điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật thi hành án hình sự năm 2019 và văn bản hướng dẫn thi hành. Trình tự, thủ tục THADS chịu sự điều chỉnh của Luật THADS năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Trình tự, thủ tục thi hành án hành chính chịu sự điều chỉnh của Luật tố tụng hành chính năm 2015, Nghị định số 71/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định thời hạn, trình tự, thủ tục thi hành án hành chính và xử lý trách nhiệm đối với người không thi hành bản án, quyết định của Tòa án.
Theo quy định tại Điều 1 Luật THADS năm 2008, việc thi hành hình phạt tiền (với tư cách là hình phạt chính và hình phạt bổ sung), tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự sẽ được thi hành theo trình tự, thủ tục THADS và chịu sự điều chỉnh của Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành. Việc thi hành bản án, quyết định dân sự; phần nội dung bản án về tài sản trong bản án, quyết định hành chính và các nội dung nêu trên trong bản án, quyết định hình sự của Tòa án hoặc do các đương sự tự nguyện thi hành, hoặc sẽ do cơ quan THADS chủ động ra quyết định thi hành án hoặc sẽ ra quyết định thi hành án khi có đơn yêu cầu. Các trường hợp cơ quan THADS phải chủ động ra quyết định thi hành án được quy định tại khoản 2 Điều 36 Luật THADS năm 2008, bao gồm: “Phần bản án, quyết định về hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí, lệ phí Tòa án; trả lại tiền, tài sản cho đương sự; tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu hủy vật chứng, tài sản; các khoản thu khác cho Nhà nước; thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc diện sung quỹ nhà nước; quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; quyết định của Tòa án giải quyết phá sản”.
Thời hạn để cơ quan THADS phải chủ động ra quyết định thi hành án hoặc là phải “ra ngay” quyết định, hoặc trong thời hạn 03 hoặc 05 ngày làm việc kể từ khi nhận được bản án, quyết định. Với các nội dung phải thi hành án khác, Thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết định thi hành án khi có yêu cầu thi hành án (khoản 1 Điều 36 Luật THADS năm 2008).
Theo các quy định tại các điều 7, 7a và 30 Luật THADS năm 2008, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan THADS có thẩm quyền ra quyết định thi hành án. Luật THADS cũng quy định thời hiệu yêu cầu thi hành án là trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Trường hợp yêu cầu thi hành án quá hạn thì người yêu cầu phải chứng minh được do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng nên họ không thể yêu cầu đúng hạn thì việc yêu cầu thi hành án đó mới có thể được chấp nhận vì thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng sẽ không được tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án (Điều 30 Luật THADS năm 2008). Với tư cách là quyền mà không phải là nghĩa vụ, người phải thi hành án và người được thi hành án có quyền lựa chọn việc thực hiện hay không thực hiện quyền “yêu cầu thi hành án”, ngoại trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 3 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 33/2020/NĐ-CP của Chính phủ). Theo đó, để bảo vệ tài sản thuộc sở hữu nhà nước, “hết thời hạn 01 năm kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp được thi hành án đối với khoản tiền, tài sản thuộc sở hữu nhà nước không yêu cầu thi hành án thì cơ quan, tổ chức quản lý trực tiếp; cơ quan đại diện chủ sở hữu của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đó có trách nhiệm chỉ đạo việc yêu cầu thi hành án”.
Quy định về “thời hiệu” được quy định trong nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau như: “Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự” được quy định trong Bộ luật Hình sự; “thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự” được quy định trong Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự; “thời hiệu thi hành bản án hình sự” quy định trong Bộ luật Hình sự; và “thời hiệu yêu cầu thi hành án” được quy định trong Luật THADS như đã nêu ở trên. Theo các quy định về thời hiệu nêu trên, điểm chung về các thời hiệu là khoảng thời hạn nhất định do các đạo luật khác nhau quy định mà khi hết thời hạn đó thì một sự kiện pháp lý xảy ra sẽ không bị truy cứu trách nhiệm nữa; hoặc quyền, nghĩa vụ pháp lý không được/không phải thực hiện nữa. Với nhận thức như trên, quy định về “thời hiệu yêu cầu thi hành án” trong Luật THADS cũng đã được quy định theo hướng này; theo đó, Luật THADS quy định trong trường hợp sau khi nhận đơn yêu cầu thi hành án mà xác định đã hết thời hiệu yêu cầu thi hành án thì cơ quan THADS từ chối yêu cầu thi hành án và phải thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu (khoản 5 Điều 31 Luật THADS năm 2008). Quy định này cũng có nghĩa là nếu đã hết thời hiệu yêu cầu thi hành án thì người phải thi hành án, người được thi hành án không còn quyền được yêu cầu thi hành án nữa, đồng nghĩa với việc phần nghĩa vụ THADS đã hết thời hiệu yêu cầu không phải thi hành án nữa. Cơ quan THADS không được thụ lý đơn yêu cầu và ra quyết định thi hành án theo yêu cầu nếu thời hiệu yêu cầu thi hành án đã hết. Cũng cần nói thêm rằng, trong trường hợp đã hết thời hiệu yêu cầu thi hành án, người phải thi hành án hoặc người thân thích của họ vẫn có quyền tự nguyện thi hành một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp này, cơ quan THADS không ra quyết định khôi phục thời hiệu yêu cầu thi hành án mà chỉ ra quyết định thi hành án tương ứng với khoản tiền, tài sản họ tự nguyện nộp, đồng thời lập biên bản ghi rõ lý do, số tiền, tài sản mà họ nộp và thông báo cho người được thi hành án đến nhận. Hết thời hạn 01 năm kể từ ngày được thông báo hợp lệ mà người được thi hành án không đến nhận tiền, tài sản thì cơ quan THADS làm thủ tục sung quỹ nhà nước, sau khi khấu trừ tiền, tài sản mà họ phải thi hành theo quyết định thi hành án khác, nếu có.
Từ những phân tích trên, tác giả cho rằng, với các nghĩa vụ dân sự được tuyên trong bản án, quyết định hình sự thuộc diện thi hành án theo yêu cầu nếu đã hết thời hiệu yêu cầu thi hành án theo quy định của luật THADS thì phần nghĩa vụ dân sự này được coi là đương nhiên không phải thi hành nữa, cũng có nghĩa là người phải thi hành án được coi như đã chấp hành xong phần nghĩa vụ này.
Từ những vướng mắc và ý nghĩa thực tiễn quan trọng của vấn đề nêu trên, chúng tôi cho rằng rất cần có sự thống nhất nhận thức giữa các cơ quan tư pháp trung ương để khẩn trương hướng dẫn các cơ quan tiến hành tố tụng địa phương, bảo đảm việc áp dụng pháp luật được thống nhất, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Nguyễn Văn Nông