Quy định về xử lý vật chứng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử một vụ việc, vụ án hình sự
Ngày đăng : 08:56, 28/02/2025
Thông tư liên tịch số 01/2025/TTLT-VKSNDTC- BCA-TANDTC-BQP quy định rõ các căn cứ, điều kiện, thời hạn, trình tự, thủ tục, trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan trong việc áp dụng các biện pháp xứ lý vật chứng, tài sản theo quy định tại Điều 3 Nghị quyết số 164/2024/QH15 ngày 28/11/2024 của Quốc hội khóa XV thí điểm xử lý vật chứng, tài sản trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử một số vụ việc, vụ án hình sự (Nghị quyết số 164/2024/QH15).
Đối tượng áp dụng, Thông tư liên tịch số 01/2025/TTLT-VKSNDTC- BCA-TANDTC-BQP nêu rõ, các cơ quan tiến hành tố tụng thụ lý, giải quyết vụ việc, vụ án hình sự thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực theo dõi, chỉ đạo; người tiến hành tố tụng thuộc các cơ quan quy định tại khoản 1 Điều này; cơ quan có trách nhiệm bảo quản vật chứng trong Công an nhân dân; Quân đội nhân dân và Cơ quan thi hành án dân sự; người tham gia tố tụng; cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan.
Nguyên tắc áp dụng: Thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 164/2024/QH15 và quy định khác của pháp luật có liên quan, bảo đảm sự thống nhất phối hợp, tuân thủ đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan theo quy định của pháp luật; bảo đảm thận trọng, chặt chẽ, có đủ căn cứ, điều kiện không để xảy ra vi phạm, lạm dụng, ảnh hưởng đến quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Đồng thời, Thông tư số 01/2025/TTLT-VKSNDTC- BCA-TANDTC-BQP quy định nhiều biện pháp xử lý vật chứng, tài sản nhằm đảm bảo quyền, lợi cho bị hại. Theo đó, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ xem xét quyết định trả lại tiền thu giữ, tạm giữ, phong tỏa cho bị hại theo quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 3 Nghị quyết số 164/2024/QH15 khi có đủ căn cứ, điều kiện, như: Đã xác định được rõ chủ sở hữu đối với số tiền đã thu giữ, tạm giữ, phong tỏa; đã xác định rõ bị hại, tổng thiệt hại và số tiền bị thiệt hại đối với từng bị hại; có văn bản đề nghị được trả lại số tiền bị thiệt hại của các bị hại hoặc đại diện của bị hại; có văn bản đề nghị trả lại số tiền bị thiệt hại của bị can, bị cáo hoặc người khác là chủ sở hữu.
Số tiền xem xét quyết định trả lại cho bị hại được xác định bằng tổng số tiền thu giữ, tạm giữ, phong tỏa trừ đi số tiền tạm tính về án phí, lệ phí và các khoản ưu tiên thi hành khác theo quy định pháp luật thi hành án dân sự; trường hợp số tiền xem xét quyết định trả lại cho bị hại lớn hơn hoặc bằng tổng số tiền thiệt hại của các bị hại thì trả lại toàn bộ cho bị hại. Phần tiền còn lại (nếu có) được xử lý theo Điều 5 Thông tư liên tịch số 01/2025/TTLT-VKSNDTC- BCA-TANDTC-BQP; trường hợp số tiền xem xét quyết định trả cho bị hại nhỏ hơn tổng số tiền thiệt hại của các bị hại thì mỗi bị hại được trả lại theo tỷ lệ dựa trên tổng số tiền xem xét trả lại cho các bị hại theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 4 Thông tư số 01/2025/TTLT-VKSNDTC- BCA-TANDTC-BQP so với tổng thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Trường hợp tiền thu giữ, tạm giữ, phong tỏa là đồng tiền của quốc gia, vùng lãnh thổ khác hoặc đồng tiền chung khác được sử dụng trong thanh toán quốc tế và khu vực thì khi quyết định trả lại tiền cho bị hại, cơ quan tiến hành tố tụng phải đề nghị một tổ chức tín dụng có thẩm quyền quy đổi và tiến hành chi trả bằng tiền Việt Nam đồng theo tỷ giá hối đoái tại thời điểm chi trả; trường hợp đến giai đoạn xét xử Tòa án xác định số tiền đã trả cho bị hại không đúng với thiệt hại thực tế mà bị hại đó đã được nhận thì Hội đồng xét xử quyết định xử lý trong bản án, quyết định.
Việc chi trả tiền cho bị hại phải thực hiện theo trình tự, thủ tục: (a) Cơ quan tiến hành tố tụng thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, tài liệu để xác định căn cứ, điều kiện trả lại tiền cho bị hại và thông báo cho bị hại, bị can, bị cáo, người khác là chủ sở hữu số tiền để họ có văn bản đề nghị. Trường hợp vụ án có nhiều bị hại mà không thể thực hiện việc thông báo trực tiếp cho bị hại thì cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện việc thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng theo quy định tại Điều 141 Bộ luật Tố tụng hình sự nêu rõ thời hạn gửi văn bản đề nghị trả tiền (b) Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn theo thông báo, nếu có văn bản đề nghị, cơ quan tiến hành tố tụng tổ chức họp để thống nhất việc quyết định trả lại tiền cho bị hại. Cuộc họp phải được lập biên bản có chữ ký của đại diện các cơ quan tham gia; (c) Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc cuộc họp theo quy định tại điểm b khoản này, nếu thống nhất được thì người có thẩm quyền quy định tại điểm a khoản 7 Điều 3 Nghị quyết số 164/2024/QH15 ra quyết định trả lại tiền cho bị hại; trường hợp không thống nhất thì thông báo bằng văn bản nêu rõ lý do cho người có văn bản đề nghị biết; (d) Quyết định trả lại tiền cho bị hại phải được ghi rõ trong kết luận điều tra, cáo trạng, bản án, quyết định của Tòa án. Quyết định trả lại tiền cho bị hại, văn bản thông báo không áp dụng biện pháp được đưa vào hồ sơ vụ án.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định áp dụng hoặc văn bản thông báo không áp dụng biện pháp trả lại tiền cho bị hại phải được gửi, giao như sau: Gửi cho Viện kiểm sát, cơ quan tiến hành tố tụng đã tham gia họp; tổ chức tín dụng và kho bạc Nhà nước có liên quan trong trường hợp ra quyết định áp dụng; giao cho bị can, bị cáo, bị hại hoặc đại diện của bị hại, chủ sở hữu hợp pháp của số tiền; Kho bạc Nhà nước, tổ chức tín dụng khi nhận được quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng phải thực hiện ngay việc trả lại tiền cho bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ và gửi các chứng từ thanh toán cho cơ quan tiến hành tố tụng đã ra quyết định để theo dõi, làm cơ sở xử lý vụ án.
Tuy nhiên những trường hợp, vật chứng, tài sản là tiền đã thu giữ, tạm giữ, phong tỏa mà không có đủ căn cứ, điều kiện để trả lại cho bị hại theo quy định tại Điều 4 Thông tư liên tịch này thì cơ quan tiến hành tố tụng xem xét quyết định áp dụng biện pháp gửi tiền vào ngân hàng để chờ xử lý theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 3 Nghị quyết số 164/2024/QH15 khi đã xác định rõ chủ sở hữu số tiền đó và chủ sở hữu có văn bản đề nghị gửi tiền vào ngân hàng (Điều 5 của Thông tư số 01/2025/TTLT-VKSNDTC- BCA-TANDTC-BQP).
Ngoài ra, Thông tư số 01/2025/TTLT-VKSNDTC- BCA-TANDTC-BQP còn quy định cơ quan tiến hành tố tụng xem xét quyết định áp dụng biện pháp mua bán, chuyển nhượng vật chứng, tài sản theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Nghị quyết số 164/2024/QH15 hoặc quyết định áp dụng biện pháp nộp tiền bảo đảm để hủy bỏ việc thu giữ, tạm giữ, kê biên, phong tỏa vật chứng, tài sản theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 164/2024/QH15 khi có đủ căn cứ và đảm bảo điều điều kiện nêu tại Thông tư 01/2025/TTLT-VKSNDTC- BCA-TANDTC-BQP.
Thông tư cũng quy định, cơ quan tiến hành tố tụng xem xét quyết định áp dụng biện pháp giao vật chứng, tài sản cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp để quản lý, khai thác, sử dụng theo quy định tại khoản 4 Điều 3 Nghị quyết số 164/2024/QH15 khi có đủ căn cứ, điều kiện: Đã xác định rõ chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp đối với vật chứng, tài sản; có văn bản của chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng giao cho họ hoặc tổ chức, cá nhân khác quản lý, khai thác, sử dụng vật chứng, tài sản. Văn bản đề nghị phải có nội dung cam kết chịu trách nhiệm bảo quản vật chứng, tài sản về việc không mua bán, chuyển nhượng, cầm cố, thế chấp, đánh tráo, hủy hoại, cố ý gây thiệt hại vật chứng, tài sản.
Trường hợp chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp không có điều kiện quản lý, khai thác, sử dụng và không tìm được tổ chức, cá nhân khác quản lý, khai thác, sử dụng thì có văn bản đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng chỉ định tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện để quản lý, khai thác, sử dụng vật chứng, tài sản đó. Tổ chức, cá nhân được chỉ định phải có cam kết bằng văn bản theo quy định tại điểm này; đã có kết luận giám định, kết luận định giá tài sản theo trưng cầu, yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng và phù hợp với thời điểm xử lý.
Cạnh đó, Thông tư còn quy định về việc thực hiện tạm ngừng giao dịch, tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản khi tài sản liên quan đến vụ việc, vụ án hoặc do người bị buộc tội nhờ tổ chức, cá nhân khác đứng tên chủ sở hữu, quản lý sử dụng.
Thông tư liên tịch số 01/2025/TTLT-VKSNDTC- BCA-TANDTC-BQP có 03 Chương, 12 Điều và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/3/2025; giao VKSND tối cao hằng năm có văn bản đề nghị Bộ Công an, TAND tối cao, Bộ Quốc phòng gửi báo cáo kết quả áp dụng biện pháp xử lý vật chứng, tài sản theo Nghị quyết số 164/2024/QH15 và Thông tư liên tịch này trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ việc, vụ án hình sự để tổng hợp, báo cáo Quốc hội về kết quả thực hiện.