Một số vấn đề cần lưu ý khi kiểm sát việc giải quyết tranh chấp chia tài sản chung của vợ chồng
Ngày đăng : 09:32, 27/02/2025
Một số vi phạm của Tòa án khi giải quyết tranh chấp chia tài sản chung của vợ chồng
Thứ nhất, vi phạm nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
Khi ly hôn, nếu vợ chồng không thỏa thuận được việc chia tài sản chung thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa án sẽ căn cứ vào các nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn để giải quyết.
- Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố: (1) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng; (2) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung; (3) Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập; (4) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập; (5) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng. Việc xem xét các yếu tố trên nhằm đảm bảo tính khách quan, công bằng, vợ chồng nhận được tài sản sau khi ly hôn phù hợp với công sức đóng góp, mức độ lỗi của mỗi người trong quan hệ hôn nhân.
Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung được hiểu là sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, công việc gia đình và lao động của vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Người vợ hoặc chồng ở nhà chăm sóc con, gia đình mà không đi làm được tính là lao động có thu nhập tương đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Quy định này có ý nghĩa thực tế, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng, đặc biệt là người ở nhà thực hiện vai trò giới - chăm sóc các thành viên gia đình, bảo quản, duy trì phát triển tài sản nhưng không phải là người trực tiếp tạo ra tài sản. Đồng thời, quy định này cũng có ý nghĩa bên có công sức đóng góp nhiều hơn sẽ được chia nhiều hơn. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết án, trong nhiều trường hợp Tòa án thường chưa xem xét khách quan, toàn diện các chứng cứ chứng minh công sức đóng góp của vợ chồng vào khối tài sản chung mà thường nhận định công sức đóng góp là ngang nhau và từ đó quyết định chia cho mỗi bên 1/2 giá trị tài sản chung, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Ví dụ: Tranh chấp về ly hôn và chia tài sản chung giữa nguyên đơn - ông Phạm Hoàng M và bị đơn - bà Tô Minh H. Tổng giá trị tài sản chung của vợ chồng là 113.020.973.552 đồng. Theo nội dung vụ án, bà H cho rằng các tài sản chung của vợ chồng hình thành phần lớn do công sức của bà H từ tiền lương và tiền thưởng; đồng thời cung cấp các tài liệu chứng minh về thu nhập. Cụ thể như sau: Từ tháng 01/2005 đến tháng 10/2005 với thu nhập là 3.098.953.975 đồng và 160.541 USD; từ ngày 01/01/2008 đến ngày 08/01/2009 là 175.900.000 đồng/tháng; phụ cấp trách nhiệm là 22.800 USD/tháng và lương bổ sung tùy vào tình hình kinh doanh của công ty và mức độ hoàn thành công việc của người lao động; từ ngày 08/01/2009 đến ngày 31/5/2014 là 16.666USD/tháng và lương bổ sung; từ ngày 01/6/2014 là 369.960.000 đồng/tháng và tiền thưởng; từ tháng 8/2017 đến hiện tại là 253.871.100 đồng/tháng (sau thuế). Ngoài ra, theo bản sao kê của ngân hàng TCB, bà H còn được nhận khoản tiền 52.000 USD/03 tháng của MS (từ tháng 7/2008 đến tháng 6/2020). Các tài liệu nêu trên do bà H cung cấp nhưng chưa được Tòa án xem xét, giải quyết. Trong khi đó, theo bản sao kê của Ngân hàng TCB thì lương và các khoản phụ cấp của ông M là: Tháng 01/2018 là 10.717.200 đồng; tháng 02/2018 là 11.253.060 đồng và tháng 3/2018 là 11.253.060 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa xác minh, thu nhập các tài liệu, chứng cứ để làm rõ mức thu nhập của ông M và bà H nhưng đã cho rằng ông M, bà H có công sức ngang nhau trong việc tạo lập khối tài sản chung của vợ chồng, từ đó chia cho ông M, bà H mỗi người được hưởng 1/2 giá trị khối tài sản chung là chưa có cơ sở.
Bên cạnh thiếu sót về việc chưa đánh giá công sức của các bên trong việc tạo lập khối tài sản chung để chia tài sản chung theo tỉ lệ thì trong các vụ án yêu cầu chia tài sản khi ly hôn khác, Tòa án xác định tài sản tranh chấp là tài sản riêng của một bên nhưng lại quyết định chia theo tỉ lệ 80% và 20% giá trị tài sản và không quyết định số tiền cụ thể mỗi bên được hưởng là bao nhiêu là mâu thuẫn và không rõ ràng trong việc tuyên án.
- Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch. Trong thời kỳ hôn nhân, tài sản chung của vợ chồng có thể là vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản, bao gồm động sản hoặc bất động sản. Tài sản chung của vợ chồng có thể là vật chia được hoặc là vật không chia được. Việc chia tài sản chung của vợ chồng căn cứ vào thỏa thuận của các bên. Trường hợp các bên không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định. Việc chia tài sản chung trước hết chia bằng hiện vật nếu hiện vật có thể chia được. Thực tiễn giải quyết án, Tòa án cũng thường vi phạm khi không ưu tiên chia tài sản chung bằng hiện vật trước khi chia bằng giá trị tài sản trong khi đương sự đều có nhu cầu nhận hiện vật và hiện vật đủ điều kiện để chia được, nhất là đối với tài sản chung là quyền sử dụng đất, nhà ở.
Ví dụ: Tranh chấp về ly hôn, nuôi con và chia tài sản chung giữa nguyên đơn - bà Trần Thị N và bị đơn - ông Nguyễn Văn T. Tài sản chung gồm có: Quyền sử dụng diện tích 692 m2 đất và các tài sản gắn liền với đất thuộc phường P, thành phố T, tỉnh B (gọi tắt là thửa đất số 381); quyền sử dụng diện tích 318 m2 đất và các tài sản gắn liền với đất thuộc phường P, thành phố T, tỉnh B (gọi tắt là thửa đất số 771); 01 chiếc xe ô tô 05 chỗ mang biển số 61A-176.29. Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm cùng quan điểm chia cho ông Nguyễn Văn T toàn bộ quyền sử dụng đất và các tài sản gắn liền với đất và phải trả số tiền chênh lệch tài sản cho bà N. Bà N có nhu cầu nhận nhà, đất vì đang nuôi con nhỏ, không có chỗ ở. Mặt khác, thửa đất số 381 có thể chia được cho bà N sử dụng một phần đất trống phía trước ngôi nhà để tạo dựng chỗ ở cho bà N và con chung, nhưng Tòa án lại chia cho bà N được hưởng phần giá trị bằng tiền cùng một số vật dụng sinh hoạt và đi tìm chỗ ở khác là chưa đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bà N, vi phạm nguyên tắc giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn theo khoản 3 Điều 59 Luật hôn nhân gia đình năm 2014. Vì vậy, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hủy một phần quyết định giám đốc thẩm và các bản án sơ thẩm, phúc thẩm để giải quyết lại vụ án.
Thứ hai, vi phạm trong việc định giá tài sản chung.
Tòa án ra quyết định định giá tài sản và thành lập hội đồng định giá trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 104 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Giá trị tài sản chung của vợ chồng, tài sản riêng của vợ, chồng được xác định theo giá thị trường tại thời điểm giải quyết sơ thẩm vụ việc, cũng tương đồng như quy định trước đây: Việc định giá tài sản được thực hiện dựa trên các tiêu chuẩn kỹ thuật thực trạng của tài sản, phù hợp với giá thị trường nơi có tài sản tại thời điểm định giá. Trong nhiều trường hợp Tòa án tiến hành định giá tài sản chung của vợ chồng nhưng không định giá theo giá thị trường tại thời điểm giải quyết sơ thẩm mà định giá theo giá nhà nước và căn cứ vào kết quả định giá đó để chia tài sản chung là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Ví dụ: Tranh chấp chia tài sản sau ly hôn giữa nguyên đơn - bà Phạm Thị V và bị đơn - ông Y Sim K. Bà V yêu cầu chia tài sản chung sau ly hôn là diện tích đất 976,9 m2 tại huyện C, tỉnh Đ. Quá trình giải quyết, Tòa án tiến hành định giá theo giá nhà nước là 35.168.400 đồng và tài sản gắn liền với đất trị giá 242.490.000 đồng, tổng cộng 277.658.000 đồng. Bản án sơ thẩm, Tòa án nhân dân huyện C quyết định: Giao cho bà V được quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất trên, có nghĩa vụ trả cho ông K tiền chênh lệch về giá trị tài sản là 114.647.000 đồng (bằng 1/2 của số tiền định giá đất và tài sản trên đất 277.658.000 đồng nêu trên). Ở giai đoạn phúc thẩm, Tòa án tiến hành định giá lại tài sản tranh chấp. Kết quả định giá xác định riêng diện tích đất 976,9 m2 nêu trên có giá thị trường là 248.000.000 đồng, chênh lệch so với giá nhà nước là 212.831.600 đồng. Như vậy, Tòa án đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của ông K, đồng thời gây thất thu ngân sách nhà nước.
Thứ ba, vi phạm trong việc xác định tài sản chung, tài sản riêng.
Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 Luật hôn nhân gia đình năm 2014; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung; quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng; trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Ngoài ra, tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.
Thực tiễn cho thấy, không phải bất kỳ tài sản nào có trước khi kết hôn là tài sản riêng của vợ hoặc chồng và cũng không phải bất kỳ tài sản nào có sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng nên phát sinh nhiều tranh chấp phức tạp, gây khó khăn cho việc xác định tài sản chung, tài sản riêng. Trong một số trường hợp, việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của Tòa án vẫn còn sai sót.
Ví dụ: Tranh chấp ly hôn và chia tài sản khi ly hôn giữa nguyên đơn - ông E, quốc tịch Pháp và bị đơn - bà C. Ông E và bà C kết hôn ngày 06/8/2013. Tài sản tranh chấp là quyền sử dụng đất có diện tích 291,3m2 đất tại xã T, huyện B, tỉnh K, nguồn gốc đất là nhận chuyển nhượng của bà Trần Thị N và chị M (con bà N). Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà C ngày 09/7/2013. Ngày 22/7/2013, bà C được Ủy ban nhân dân huyện B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (thửa số 58). Bà N và chị M (con bà N) xác nhận chuyển nhượng đất cho vợ chồng ông E và bà C, nhận tiền từ vợ chồng ông E tại Văn phòng công chứng, không chuyển nhượng cho cá nhân bà C. Bà Trần Thị N còn cho rằng do bà C nói ông E là người nước ngoài nên không được đứng tên trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và cũng không được mua đất tại Việt Nam. Theo quy định tại Điều 9 Luật đất đai năm 2003 thì người nước ngoài không được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Việt Nam. Do đó, chỉ có mình bà C đứng tên (là bên nhận chuyển nhượng) tại hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Lời khai của bà N, chị M phù hợp với lời khai của ông E. Mặt khác, dù hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 09/7/2013 được ký trước khi ông E và bà C đăng ký kết hôn (ngày 06/8/2013) nhưng ngày 16/4/2013, ông E và bà C đã có tờ khai đăng ký kết hôn và đã tổ chức lễ cưới vào tháng 7/2013. Do đó, có cơ sở xác định thửa đất số 58 là tài sản chung của ông E và bà C. Tòa án cấp phúc thẩm xác định là tài sản riêng của bà C là không đúng.
Thứ tư, công nhận sự thỏa thuận về tài sản của vợ chồng ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích của người có quyền và lợi ích liên quan.
Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong một số trường hợp nhằm tẩu tán tài sản, trốn tránh thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp, Tòa án đều xác định đúng và đưa những người có quyền và lợi ích liên quan đến tài sản chung của vợ chồng tham gia tố tụng trong vụ việc yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng. Do đó, việc Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong những trường hợp này là trái luật.
Ví dụ: Tranh chấp hôn nhân và gia đình giữa nguyên đơn - anh T và bị đơn - chị H. Tại quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự có nội dung về tài sản và công nợ như sau: Anh T được quyền sử dụng và sở hữu những tài sản chung của vợ chồng gồm: Diện tích đất 136 m2 tại xã P, huyện G, tỉnh W; nhà xây gạch D220, mái bằng có diện tích 272m2 trên diện tích đất 136m2; Anh T có nghĩa vụ giao lại cho chị H 100.000.000 đồng tiền chênh lệch tài sản; trả nợ cho Ngân hàng B số tiền 189.980.000 đồng tiền gốc và tiền lãi phát sinh. Tuy nhiên, theo tài liệu xác minh do Chi cục Thi hành án dân sự thị xã S cung cấp thì năm 2007, Tòa án nhân dân huyện G đã ban hành 07 quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, theo các quyết định đó thì chị H phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho các cá nhân với tổng số tiền là 487.854.000 đồng. Quá trình làm việc với cơ quan Thi hành án, tại biên bản làm việc ngày 23/01/2018, anh T có ý kiến là vợ chồng sẽ bán nhà để trả nợ và cam kết thời gian thực hiện việc thi hành án. Do tình hình nhiều vụ vỡ phường hụi diễn ra phức tạp trên địa bàn nên ngày 02/4/2018, Chi cục Thi hành án huyện G đã có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân không xác nhận việc mua bán, chuyển nhượng… thay đổi hiện trạng quyền sử dụng đất đối với người phải thi hành án. Như vậy, quá trình giải quyết việc ly hôn, chị H vẫn chưa thực hiện nghĩa vụ thi hành án đối với 07 quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Anh T đã được thông báo về các nội dung trên và có cam kết liên quan đến tài sản chung vợ chồng là nhà đất tại xã P, huyện G, tỉnh W. Tuy nhiên, quá trình thỏa thuận phân chia về tài sản và công nợ, anh T và chị H không trình bày về nghĩa vụ về tài sản đối với người thứ ba (các khoản nợ chưa thi hành án nói trên) là có dấu hiệu tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án. Tòa án nhân dân huyện G công nhận sự thỏa thuận của anh T, chị H làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích của những người được thi hành án.
Một số lưu ý khi kiểm sát việc giải quyết tranh chấp chia tài sản chung của vợ chồng
Một là, quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập trước ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có hiệu lực thì áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình tại thời điểm xác lập để giải quyết. Do đó, Kiểm sát viên cần nắm vững các quy định của Luật hôn nhân và gia đình qua các thời kỳ (năm 1959, 1986, 2000 và 2014) và các văn bản hướng dẫn; Án lệ số 03/2016, cần xác định thời điểm xác lập quan hệ hôn nhân hợp pháp của vợ chồng để xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng. Trong nhiều trường hợp, trước khi kết hôn, cả hai bên cùng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nhà ở nhưng vì nhiều lý do cá nhân mà chỉ một bên đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhà ở. Do đó, nếu tranh chấp tài sản có trước khi kết hôn cần xem xét nguồn gốc của tài sản, quá trình xác lập quyền sử dụng, quyền sở hữu của một bên, các tài liệu chứng cứ khác như lời khai của bên chuyển nhượng, biên bản giao nhận… Bên cạnh đó, cần xem xét có hay không việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung. Kiểm sát viên xem xét Tòa án đã xác minh, thu thập đầy đủ các tài liệu chứng cứ để xác định đúng tài sản chung, tài sản riêng hay chưa.
Hai là, vợ chồng ly hôn sau ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có hiệu lực thì cần xác định chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận hay theo luật định để áp dụng nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cho phù hợp.
Nếu vợ chồng không thỏa thuận được việc chia tài sản chung mà yêu cầu Tòa án giải quyết thì Kiểm sát viên xác định các bên có yêu cầu chia tài sản như thế nào; các bên có yêu cầu tính công sức đóng góp trong việc tạo lập, duy trì và phát triển tài sản chung thì chứng cứ chứng minh của mỗi bên cho yêu cầu của mình như thế nào; Tòa án khi giải quyết nội dung này có căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự cung cấp để xem xét, phân tích, đánh giá công sức, đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung không. Đồng thời, Tòa án có xem xét lỗi trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng dẫn đến ly hôn, có xác định lỗi này ảnh hưởng như thế nào đến việc chia tài sản chung khi ly hôn không. Tòa án đã xem xét, đánh giá tài liệu, chứng cứ và nhận định trong bản án có khách quan, công bằng không. Bên cạnh đó, Tòa án có xem xét để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình chưa?
Ba là, Kiểm sát viên cần xem xét việc Tòa án chia tài sản chung của vợ chồng có đúng căn cứ theo khoản 3 Điều 59 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 không. Nếu các bên không có thỏa thuận khác thì việc chia tài sản chung trước tiên là chia bằng hiện vật, nếu hiện vật có thể chia được và vẫn đảm bảo tính năng, giá trị sử dụng. Việc chia hiện vật là quyền sử dụng đất, nhà ở thì việc phân chia phải đảm bảo diện tích tối thiểu tách thửa theo quy định pháp luật của từng loại đất, từng địa phương, kết cấu, điều kiện sinh hoạt và có tính khả thi khi thi hành án.
Khi chia nhà ở là tài sản chung và là chỗ ở duy nhất của vợ chồng, trong trường hợp không chia được bằng hiện vật thì Tòa án xem xét và quyết định cho người vợ hoặc chồng trực tiếp nuôi con chưa thành niên, con bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự nhận hiện vật và thanh toán giá trị tương ứng với phần tài sản được chia cho người chồng hoặc vợ nếu người vợ hoặc chồng có yêu cầu.
Trong trường hợp không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch. Khi xác định giá trị tài sản, Kiểm sát viên cần xem xét giá trị của tài sản là theo thoả thuận của các bên hay theo kết quả thẩm định giá. Trong trường hợp Tòa án định giá thì việc thành lập hội đồng định giá, việc định giá có vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự nào không, có gây thất thoát ngân sách nhà nước không.
Bốn là, trong các vụ việc mà vợ chồng có yêu cầu Tòa án công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con và chia tài sản khi ly hôn thì Kiểm sát viên cần lưu ý việc thỏa thuận về tài sản chung của vợ chồng có ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác không, có dấu hiệu tẩu tán tài sản, trốn tránh thực hiện nghĩa vụ không. Trong trường hợp Tòa án ban hành quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trái luật thì cần báo cáo Lãnh đạo Viện để báo cáo Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét kháng nghị giám đốc thẩm.
Nguyễn Thị Thu Trang - Đào Thị Diệu Thương