Bàn về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự

Ngày đăng : 14:07, 31/01/2025

(Kiemsat.vn) - Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự phúc thẩm là quyết định của Tòa án làm chấm dứt toàn bộ hoạt động tố tụng giải quyết vụ án dân sự và kết quả của quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn sơ thẩm sẽ không được công nhận.

Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự phúc thẩm là quyết định của Tòa án làm chấm dứt toàn bộ hoạt động tố tụng giải quyết vụ án dân sự và kết quả của quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn sơ thẩm sẽ không được công nhận. Thực tiễn vẫn còn một số vướng mắc về thẩm quyền ban hành quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm và đình chỉ vụ án do người kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt, sau khi có quyết định giám đốc thẩm tuyên hủy bản án sơ thẩm, phúc thẩm để xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Về thẩm quyền ban hành quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm

Tại các khoản 2, 3, 4 Điều 284 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 quy định về việc “trước khi bắt đầu phiên tòa” hay “tại phiên tòa” để phân biệt thẩm quyền ban hành quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm trong trường hợp rút kháng cáo, kháng nghị thuộc về Thẩm phán chủ tọa phiên tòa hay của Hội đồng xét xử (HĐXX). Tuy nhiên, tại khoản 2 Điều 289 BLTTDS năm 2015 lại quy định rõ thẩm quyền ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm thuộc về Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa hoặc HĐXX, phụ thuộc vào việc trước hay sau khi Tòa án đã ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử. Cụ thể, trong trường hợp người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo hoặc Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị trước khi Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm thì Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm; trường hợp người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo, Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị sau khi Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm thì HĐXX phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm. Như vậy, trong cùng giai đoạn xét xử phúc thẩm nhưng quy định tại Điều 284 và Điều 289 BLTTDS năm 2015 chưa có sự thống nhất.

Theo tiểu mục 3 Mục II Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của Tòa án nhân dân (TAND) tối cao hướng dẫn về thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 219 BLTTDS năm 2015 như sau:

…“b) Về thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án

Điều 219 BLTTDS năm 2015 quy định về thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là:

“1. Trước khi mở phiên tòa, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án dân sự có thẩm quyền ra quyết định...

2. Tại phiên tòa, HĐXX có thẩm quyền ra quyết định...”

Vậy đến ngày mở phiên tòa đã được coi là “tại phiên tòa” hay chưa? Mục 2 Chương XIV BLTTDS năm 2015 quy định về thủ tục bắt đầu phiên tòa. Theo quy định tại Mục này thì phiên tòa bắt đầu bằng thủ tục “khai mạc phiên tòa” (Điều 239). Do đó, đến ngày mở phiên tòa (được triệu tập) nhưng chưa khai mạc phiên tòa thì chưa coi là “bắt đầu phiên tòa”, chưa coi là “tại phiên tòa”. Nếu nguyên đơn nộp đơn xin rút yêu cầu khởi kiện trước khi khai mạc phiên tòa thì Thẩm phán vẫn có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án chứ không phải là HĐXX”.

Như vậy, theo hướng dẫn của Công văn số 64/2019 thì phạm vi “trước khi mở phiên tòa” và “tại phiên tòa” rộng hơn so với “trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử” và “sau khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử”.

Mặt khác, tại khoản 1 Điều 299 BLTTDS năm 2015 quy định: “Trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì HĐXX phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không…”. Như vậy, có thể hiểu, trong trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện “trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm”, thì thẩm quyền đều do HĐXX quyết định là chưa hợp lý, chưa phân biệt ranh giới về thẩm quyền của Thẩm phán được phân công giải quyết trước khi mở phiên tòa với HĐXX tại phiên tòa.

Về đình chỉ vụ án do người kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt, sau khi có quyết định giám đốc thẩm tuyên hủy bản án sơ thẩm, phúc thẩm để xét xử lại theo trình tự phúc thẩm

Ví dụ: Tại Quyết định giám đốc thẩm số 271/2021/QĐ-GĐT ngày 22/11/2021 của TAND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, chấp nhận một phần kháng nghị số 166 ngày 07/6/2021 tuyên huỷ bản án phúc thẩm, giao hồ sơ cho TAND tỉnh K xét xử lại theo trình tự phúc thẩm, với lý do bản án phúc thẩm vi phạm về việc tính lãi suất, thời điểm tính lãi, cách tính lãi suất chưa đúng quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS và Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm.

Ngày 13/6/2022, TAND tỉnh K đã đưa ra xét xử lại, tại Quyết định đình chỉ vụ án số 12/2022/QĐ-PT, HĐXX phúc thẩm đã đình chỉ vụ án với lý do người kháng cáo là bị đơn - bà H đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt (theo quy định tại các điều 289, 295 BLTTDS năm 2015) và tuyên bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật.

Vậy, những vấn đề mà tại Quyết định giám đốc thẩm số 271/2021 đã nêu ra để xét xử lại phúc thẩm sẽ được giải quyết như thế nào?

Xét về việc căn cứ trình tự, thủ tục tố tụng ban hành Quyết định đình chỉ số 12/2022 của TAND tỉnh K là đúng quy định tại các điều 289, 295 BLTTDS năm 2015, khi Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng người kháng cáo vắng mặt. Tuy nhiên, việc đình chỉ này có đảm bảo sự công bằng và tính nghiêm minh của pháp luật hay không, bởi lẽ, nó chưa khắc phục được các sai sót mà Quyết định giám đốc thẩm số 271/2021 đã nêu ra để cấp phúc thẩm xét xử lại. Trong khi đó, Quyết định giám đốc thẩm trên không đề cập đến việc bản án sơ thẩm lần đầu có tuyên đúng hay không. Do đó, việc đình chỉ phúc thẩm của TAND tỉnh K vô hình trung làm bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật, như vậy gây thiệt hại cho đương sự, ảnh hưởng đến sự nghiêm minh của pháp luật.

Hiện nay, đối với vấn đề đình chỉ nêu trên, có thể tham khảo tinh thần của các quy định sau:

Điều 299 BLTTDS năm 2015 quy định:

“1. Trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì HĐXX phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không và tuỳ từng trường hợp mà giải quyết như sau:

a) Bị đơn không đồng ý thì không chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn;

b) Bị đơn đồng ý thì chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn. Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp này, các đương sự vẫn phải chịu án phí sơ thẩm theo quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và phải chịu một nửa án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật”.

Vấn đề việc hỏi bị đơn có đồng ý hay không chỉ đặt ra đối với trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện, mà không có quy định đối với trường hợp người kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt.

Khoản 4 Điều 217 BLTTDS năm 2015 quy định về đình chỉ giải quyết vụ án như sau: “4. Đối với vụ án được xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm sau khi có quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm mà Tòa án quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án thì Tòa án đồng thời phải giải quyết hậu quả của việc thi hành án, các vấn đề khác có liên quan (nếu có); trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện hoặc đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì việc đình chỉ giải quyết vụ án phải có sự đồng ý của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”. Khoản này chỉ áp dụng đối với trường hợp xét xử lại theo trình tự sơ thẩm mà không quy định đối với trình tự phúc thẩm, nếu trường hợp người kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt.

Đối với vấn đề đình chỉ tại khoản 4 Điều 217 BLTTDS năm 2015, đã có hướng dẫn tại mục 17 phần IV Giải đáp số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 và mục 6 phần II Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của TAND tối cao. Tuy nhiên, các văn bản hướng dẫn này chỉ hướng dẫn đối với trường hợp xét xử lại ở cấp sơ thẩm mà không hướng dẫn đối với trường hợp xét xử lại ở cấp phúc thẩm, nếu người kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt.

Đề xuất, kiến nghị

Thứ nhất, cần sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 289 BLTTDS năm 2015 theo hướng trước khi mở phiên tòa, người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo hoặc Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị thì Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm. Tại phiên tòa, người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo, Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị thì HĐXX phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm. Đồng thời, sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 299 BLTTDS năm 2015 theo hướng: Trước khi mở phiên tòa, nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không; tại phiên tòa, nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì HĐXX phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không. Việc sửa đổi, bổ sung các quy định trên giúp phân biệt rõ thẩm quyền của Thẩm phán được phân công giải quyết với thẩm quyền của HĐXX, thống nhất và phù hợp với các quy định tại các điều 219, 235 và khoản 3 Điều 284 BLTTDS năm 2015.

Thứ hai, trong trường hợp quyết định giám đốc thẩm tuyên huỷ bản án phúc thẩm để xét xử lại theo trình tự phúc thẩm nhưng người kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vắng mặt và HĐXX phúc thẩm đã đình chỉ vụ án. Theo quan điểm của tác giả, trong trường hợp này có thể viện dẫn tinh thần của khoản 4 Điều 217 BLTTDS năm 2015, cụ thể: Đối với vụ án được xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm sau khi có quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm mà Tòa án quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án thì Tòa án đồng thời phải giải quyết các vấn đề đã được cấp giám đốc thẩm, tái thẩm nêu ra (nếu có); trường hợp người kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì việc đình chỉ giải quyết vụ án phải có sự đồng ý của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

ThS. Bùi Ai Giôn

Theo Tạp chí Kiểm sát in số 06/2024