Kinh nghiệm kiểm sát quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Ngày đăng : 14:04, 31/01/2025
Một số dạng vi phạm thường gặp khi ban hành quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Thứ nhất, đình chỉ giải quyết toàn bộ vụ án khi vụ án còn yêu cầu phản tố của bị đơn chưa được giải quyết.
Trong các vụ án dân sự có nhiều quan hệ tranh chấp như: Tranh chấp ly hôn, chia tài sản chung khi ly hôn; tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu; tranh chấp di sản thừa kế, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tranh chấp hợp đồng vay tài sản… Trong các vụ án này có yêu cầu phản tố của bị đơn hoặc yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự nếu phát sinh căn cứ như: “Người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện hoặc nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, trừ trường hợp họ đề nghị xét xử vắng mặt hoặc vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan” thì Tòa án ban hành quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Tuy nhiên, nếu trong các vụ án có nhiều quan hệ tranh chấp, trong đó có yêu cầu phản tố của bị đơn hoặc yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chưa được Tòa án xem xét giải quyết thì việc đình chỉ giải quyết toàn bộ vụ án là vi phạm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Ví dụ: Vụ án “Tranh chấp ly hôn, chia tài sản chung khi ly hôn” giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị N và bị đơn Đỗ Văn B. Bà N xin ly hôn với ông B đã được Tòa án thụ lý. Ông B cũng đồng ý ly hôn với bà N nhưng ông, bà có tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con chung và phần tài sản chung (yêu cầu của ông B đã được Tòa án thụ lý). Sau đó, bà N có đơn xin rút đơn khởi kiện. Tại phiên tòa được mở lần thứ hai, bà N tiếp tục vắng mặt, ông B có mặt tại phiên tòa và không đồng ý việc rút đơn khởi kiện của bà N, đề nghị Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án với lý do nguyên đơn có đơn xin rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện và vắng mặt tại phiên tòa. Như vậy, Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án là không đúng quy định của BLTTDS vì vụ án còn có yêu cầu phản tố của bị đơn (là yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con và tranh chấp tài sản chung khi ly hôn và bị đơn cũng đồng ý ly hôn). Trong trường hợp này, Hội đồng xét xử sơ thẩm chỉ cần đình chỉ đối với phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và thay đổi địa vị tố tụng, bị đơn trở thành nguyên đơn, nguyên đơn trở thành bị đơn theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 217 và khoản 1 Điều 245 BLTTDS năm 2015 mà không đình chỉ giải quyết toàn bộ vụ án.
Thứ hai, đình chỉ giải quyết vụ án trong trường hợp nguyên đơn đã ghi đúng địa chỉ của bị đơn nhưng bị đơn thay đổi địa chỉ khác.
Địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015 như sau: Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định mà thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì Thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.
Đồng thời, người khởi kiện đã cung cấp địa chỉ “nơi cư trú, làm việc, hoặc nơi có trụ sở” của người bị kiện... cho Tòa án theo đúng quy định của pháp luật và hướng dẫn tại khoản 1 Điều 5 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tại thời điểm nộp đơn khởi kiện mà được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp, xác nhận hoặc có căn cứ khác chứng minh rằng đó là địa chỉ của người bị kiện... thì được coi là đã ghi đúng địa chỉ của người bị kiện... theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015.
Trường hợp người bị kiện thay đổi nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong giao dịch, hợp đồng mà không thông báo cho người khởi kiện biết về nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở mới theo quy định tại khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 BLTTDS năm 2015 thì được coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung mà không đình chỉ việc giải quyết vụ án vì lý do không tống đạt được cho bị đơn… và trường hợp cơ quan, tổ chức thay đổi trụ sở mà không công bố công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 79 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì được coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung mà không đình chỉ việc giải quyết vụ án vì lý do không tống đạt được cho bị đơn.
Thực tiễn kiểm sát các quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thấy rằng còn nhiều trường hợp Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án với lý do “không xác minh được địa chỉ của bị đơn, không thể tống đạt được văn bản tố tụng cho bị đơn” trong khi nguyên đơn đã ghi đúng địa chỉ cư trú hoặc trụ sở của bị đơn, có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền.
Ví dụ: Vụ án “tranh chấp ly hôn giữa nguyên đơn Lê Thị Hồng N, và bị đơn Phan Công T”, cùng trú tại huyện T, tỉnh Q. Nguyên đơn chị Lê Thị Hồng N nộp đơn khởi kiện kèm theo giấy xác nhận của Công an xã B, huyện T, xác nhận bị đơn anh Phan Công T hiện đang có mặt tại địa chỉ tổ 3, thôn A, xã B, huyện T, tỉnh Q. Vụ án đã được Tòa án thụ lý giải quyết. Trong quá trình giải quyết, Tòa án cấp sơ thẩm ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án với lý do: “Bị đơn không có mặt tại địa phương khi Tòa án thụ lý nên chưa đủ điều kiện khởi kiện theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 217 của BLTTDS…”. Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ giải quyết vụ án là không đúng quy định của pháp luật; bởi căn cứ điểm a khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017 nêu trên thì trường hợp chị N khởi kiện được coi là đã ghi đúng địa chỉ của người bị kiện. Bị đơn Phan Công T đã đi khỏi địa phương mà không khai báo tạm vắng và địa chỉ tạm trú với chính quyền địa phương được coi là cố tình giấu địa chỉ, Tòa án cần tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục.
Thứ ba, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong trường hợp đương sự không nộp tiền tạm ứng định giá tài sản và chi phí tố tụng khác.
Một trong những căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là: Nguyên đơn không nộp tiền tạm ứng định giá tài sản và chi phí tố tụng khác theo quy định của BLTTDS năm 2015. Theo mục 2 phần II của Giải đáp số 01/GĐ-TANDTC ngày 05/01/2018, Tòa án nhân dân tối cao có hướng dẫn “... trường hợp nguyên đơn đã nộp tiền tạm ứng chi phí giám định, chi phí định giá tài sản nhưng khi có kết luận giám định, kết quả định giá tài sản thì chi phí giám định, chi phí định giá tài sản cao hơn số tiền tạm ứng và Tòa án có yêu cầu nguyên đơn nộp bổ sung nhưng nguyên đơn không thực hiện thì không phải là căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 217 BLTTDS...”.
Đồng thời, theo Hướng dẫn sử dụng Mẫu số 04-DS của Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành một số biểu mẫu trong tố tụng dân sự thì: “Đối với trường hợp mà pháp luật không quy định thì thời hạn đương sự phải nộp chi phí tố tụng là 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án, trường hợp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì thời hạn có thể kéo dài nhưng không quá 20 ngày”.
Thực tế, một số trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ giải quyết vụ án với lý do: “Nguyên đơn không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác” mà không xác định có thuộc trường hợp sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan hay không là chưa đảm bảo quyền lợi của nguyên đơn.
Ví dụ: Vụ án “tranh chấp hợp đồng thuê đất giữa ông Võ Văn T và ông Nguyễn Bá N”. Quá trình tố tụng, ông T đã nộp 1.000.000 đồng tiền tạm ứng chi phí đo đạc, thẩm định tại chỗ cây trồng tranh chấp. Sau đó, Tòa án thông báo yêu cầu ông T nộp 2.000.000 đồng tiền tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo. Quá thời hạn Tòa án ấn định theo thông báo, Tòa án căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015 ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án với lý do ông Võ Văn T không nộp tạm ứng chi phí tố tụng theo quy định. Như vậy, căn cứ theo mục 2 Phần II Giải đáp số 01/GĐ-TANDTC, Tòa án sơ thẩm ra quyết định đình chỉ chưa đúng quy định. Đồng thời, nếu tính từ ngày nhận thông báo yêu cầu nộp tạm ứng chi phí tố tụng đến ngày ban hành quyết định đình chỉ thì chưa đủ 20 ngày, Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ ông T nộp tiền quá hạn có thuộc trường hợp sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan hay không mà ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án là chưa đảm bảo quyền lợi của ông T.
Thứ tư, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự vi phạm khoản 4 Điều 217 BLTTDS năm 2015.
Đối với vụ án được xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm sau khi có quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm mà Tòa án quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án thì Tòa án đồng thời phải giải quyết hậu quả của việc thi hành án, các vấn đề khác có liên quan (nếu có); trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện hoặc đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì việc đình chỉ giải quyết vụ án phải có sự đồng ý của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án mà không có sự đồng ý của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc Tòa án không giải quyết toàn bộ hậu quả của việc thi hành án.
Ví dụ: Vụ án “Tranh chấp di sản thừa kế giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị A và bị đơn là ông Nguyễn Khắc T”. Tòa án nhân dân huyện Đ, thành phố H đã thụ lý vụ án dân sự sơ thẩm về việc tranh chấp di sản thừa kế theo quyết định giám đốc thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao tại HN về việc hủy toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm và bản án dân sự sơ thẩm. Sau khi thụ lý vụ án, bà Nguyễn Thị A là nguyên đơn có đơn xin rút toàn bộ đơn khởi kiện, Tòa án nhân dân huyện Đ, thành phố H đã ban hành quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự với lý do nguyên đơn bà Nguyễn Thị A rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện đối với bị đơn ông Nguyễn Khắc T (không có ý kiến của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan). Tại quyết định đình chỉ giải quyết vụ án chỉ giải quyết về án phí mà không đề cập đến việc bà A đã được Cơ quan thi hành án huyện Đ cưỡng chế giao cho bà A 52,04m2 đất và đã được Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà A, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Một số lưu ý đối với Kiểm sát viên khi kiểm sát quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm
Khi kiểm sát các quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm, Kiểm sát viên cần nắm vững các quy định tại Điều 217, Điều 244, Điều 245 BLTTDS năm 2015, Điều 18 Quy chế công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự (ban hành kèm theo Quyết định số 364/QĐ-VKSTC ngày 02/10/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao), Điều 5, Điều 10, Điều 11 Quyết định số 399/QĐ-VKSTC ngày 06/9/2019 ban hành quy định về quy trình, kỹ năng kiểm sát bản án, quyết định giải quyết vụ án dân sự của Tòa án. Ngoài việc kiểm sát các nội dung như: Thời hạn gửi quyết định, hình thức quyết định, thời hạn ban hành quyết định, thẩm quyền ban hành quyết định…, Kiểm sát viên cần lưu ý một số nội dung sau:
Thứ nhất, cần xác định căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án có thuộc các trường hợp quy định tại Điều 217 BLTTDS năm 2015 không và thuộc trường hợp nào?
Trường hợp Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án theo căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015, Kiểm sát viên cần xem xét nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện hay chỉ rút một phần, trong vụ án còn có yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hay không (có yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập nào mà Tòa án chưa xem xét giải quyết).
Trường hợp Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án theo căn cứ điểm g khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015 (các trường hợp trả lại đơn khởi kiện quy định tại khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015) trong đó lưu ý trường hợp đình chỉ vì lý do không xác minh được địa chỉ của bị đơn, Kiểm sát viên cần nghiên cứu kỹ hướng dẫn tại Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 BLTTDS số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án để kiểm sát nhận định của Tòa án về việc nguyên đơn cung cấp chứng cứ liên quan đến địa chỉ của bị đơn; việc Tòa án tiến hành xác minh có đầy đủ, khách quan không.
Trường hợp Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án theo căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015, Kiểm sát viên cần xem xét nội dung Tòa án ấn định thời gian đương sự phải nộp chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác có phù hợp với Hướng dẫn sử dụng Mẫu số 04-DS của Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành một số biểu mẫu trong tố tụng dân sự hay không (tùy từng trường hợp, căn cứ quy định của pháp luật mà Tòa án ghi thời hạn đương sự phải nộp chi phí tố tụng). Ví dụ, theo quy định tại khoản 3 Điều 47 Pháp lệnh chi phí giám định, định giá; chi phí cho người làm chứng, người phiên dịch trong tố tụng năm 2012 thì: “Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án, người yêu cầu Tòa án triệu tập người làm chứng phải nộp tiền tạm ứng chi phí cho người làm chứng.” Trường hợp này Tòa án ghi “05 ngày làm việc”. Đối với trường hợp mà pháp luật không quy định thì thời hạn đương sự phải nộp chi phí tố tụng là 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án, trường hợp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì thời hạn có thể kéo dài nhưng không quá 20 ngày. Đồng thời, Kiểm sát viên cần tham khảo thêm Giải đáp số 01/GĐ-TANDTC ngày 05/01/2018 của Tòa án nhân dân tối cao giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ, Công văn số 02/TANDTC-PC ngày 02/8/2021 của Tòa án nhân dân tối cao về việc giải đáp một số vướng mắc trong xét xử để xem xét tính có căn cứ của các quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án.
Trường hợp Tòa án đình chỉ giải quyết đối với vụ án được xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm sau khi có quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm thì Kiểm sát viên căn cứ vào khoản 4 Điều 217 BLTTDS năm 2015 để xem xét Tòa án có đồng thời giải quyết hậu quả của việc thi hành án, các vấn đề khác có liên quan (nếu có) không; trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện hoặc đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì có sự đồng ý của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hay không.
Thứ hai, Kiểm sát viên cần kiểm sát nội dung quyết định về giải quyết hậu quả của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo quy định tại Điều 218 BLTTDS năm 2015, về việc ghi quyền kháng cáo, kháng nghị. Trường hợp quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc tại phiên tòa sơ thẩm, Kiểm sát viên cần lưu ý kiểm sát thành phần Hội đồng xét xử; việc thay đổi địa vị tố tụng trong vụ án có yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định tại các điểm b và c khoản 2 Điều 217 BLTTDS năm 2015; xem xét các nhận định, phân tích trong quyết định đình chỉ có đúng với nhận định của Hội đồng xét xử tại phiên tòa hay không; có phù hợp với ý kiến của Viện kiểm sát tại phiên tòa không để xem xét kháng nghị.
ThS. Nguyễn Thị Thu Trang - ThS. Đào Thị Diệu Thương