Về định hướng nhân đạo hóa chính sách pháp luật hình sự về các tội phạm tham nhũng

Ngày đăng : 01:29, 29/01/2025

(Kiemsat.vn) - Nhân đạo hóa chính sách pháp luật hình sự về các tội phạm tham nhũng được thể hiện chủ yếu trong việc đề cao tính hướng thiện, tôn trọng và bảo vệ con người bằng pháp luật hình sự, hạn chế tính nghiêm khắc của hình phạt bởi mức tối thiểu cần thiết để bảo vệ cá nhân và áp dụng đối với người phạm tội các biện pháp tác động hình sự nhân đạo nhất, đủ để giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa phạm tội mới.

Nhân đạo hóa chính sách pháp luật hình sự về các tội phạm tham nhũng được thể hiện chủ yếu trong việc đề cao tính hướng thiện, tôn trọng và bảo vệ con người bằng pháp luật hình sự, hạn chế tính nghiêm khắc của hình phạt bởi mức tối thiểu cần thiết để bảo vệ cá nhân và áp dụng đối với người phạm tội các biện pháp tác động hình sự nhân đạo nhất, đủ để giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa phạm tội mới. Tư tưởng chủ đạo này có tính xuyên suốt trong quá trình xây dựng luật cũng như trong áp dụng pháp luật hình sự ở nước ta.

Quan niệm về nhân đạo hóa chính sách pháp luật hình sự về các tội phạm tham nhũng

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, “con người là sản phẩm của tự nhiên và xã hội”. Bên cạnh những đặc điểm sinh học tự nhiên, con người cũng mang bản tính xã hội, là sản phẩm của xã hội và là tổng hoà các mối quan hệ xã hội. Mặt khác, con người không thụ động trước tự nhiên, mà ngược lại, “con người cũng tác động trở lại tự nhiên, cải biến tự nhiên và tạo cho mình những điều kiện sinh tồn mới”. C.Mác chỉ rõ: “Lịch sử xã hội của con người luôn luôn chỉ là lịch sử của sự phát triển cá nhân của những con người”, đồng thời khẳng định cần phải làm cho các tình tiết, hoàn cảnh trở thành nhân đạo để ở đó mọi người sống và hoạt động.

Nhận thức sâu sắc quan điểm của C.Mác về vấn đề con người, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng con người và xây dựng đất nước. Sự khẳng định và phổ biến một cách rộng rãi các tư tưởng nhân đạo trong đời sống xã hội và khoa học đã tác động mạnh mẽ đến sự phát triển pháp luật và sự hoàn thiện các quá trình tác động đến tình hình tội phạm. Do đó, trong các văn kiện của Đảng và các quy định của Nhà nước, quan điểm đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội luôn là một quan điểm nhất quán.

Chính sách pháp luật hình sự Việt Nam về các tội phạm tham nhũng là một bộ phận cấu thành của chính sách hình sự, nhằm xác định những phương hướng cơ bản có tính chất chỉ đạo của Nhà nước trong hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội phạm tham nhũng, đảm bảo sự ổn định của hệ thống pháp luật hình sự, tăng cường việc bảo vệ các quyền và tự do của con người, cũng như các lợi ích hợp pháp của xã hội và của Nhà nước bằng pháp luật hình sự, đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Hiện nay, nhu cầu tiếp tục hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự Việt Nam về các tội phạm tham nhũng xuất phát từ những biến đổi sâu sắc diễn ra trong xã hội, từ đặc điểm của tình hình các tội phạm tham nhũng ở nước ta và tính hiệu quả chưa cao của chính sách pháp luật hình sự hiện hành đối với nhóm tội phạm này.

Định hướng hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự về các tội phạm tham nhũng được xây dựng và phát triển từ các nhiệm vụ trọng tâm mà Ban Chấp hành trung ương Đảng Khóa XIII đã đề ra tại Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Một trong những nội dung của Chiến lược cải cách tư pháp ở Việt Nam đến năm 2030 được thể hiện tại Nghị quyết này là: “Xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo… Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị; phát huy dân chủ, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân...”. Do vậy, trong bối cảnh hiện nay, nhân đạo hóa được xác định là nhân tố chủ đạo và là một xu hướng tất yếu khách quan. Với ý nghĩa là phạm trù đạo đức thừa nhận và tôn trọng những giá trị con người, tư tưởng nhân đạo phải là nền tảng cốt lõi cho nội dung của chính sách pháp luật.

Các định hướng cụ thể trong nhân đạo hóa chính sách pháp luật hình sự về các tội phạm tham nhũng

Hạn chế khả năng áp dụng hình phạt tử hình

Tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất và là hình phạt đặc biệt, bởi đây là hình phạt duy nhất tước bỏ quyền sống của người phạm tội, không đặt ra mục đích giáo dục, cải tạo người phạm tội. Tử hình là loại hình phạt có truyền thống từ lâu đời và hiện vẫn đang tồn tại trong pháp luật hình sự của nhiều quốc gia. Với quan điểm cho rằng, con người luôn có tính thiện, đều có khả năng cải tạo, giáo dục và quyền được sống của con người là quyền thiêng liêng, cần được tôn trọng và bảo vệ nên một trong những định hướng nhân đạo hóa chính sách pháp luật hình sự nước ta là tiếp tục nghiên cứu để thu hẹp, tiến tới dần loại bỏ khả năng áp dụng hình phạt này trong Bộ luật Hình sự, đặc biệt đối với các tội phạm mà mục đích của việc phạm tội chỉ là thu được lợi ích về kinh tế như các tội phạm tham nhũng.

Hiện nay, trong số 07 tội phạm tham nhũng quy định tại Mục 1 Chương XXIII của BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS năm 2015), có 02 tội phạm quy định hình phạt tử hình là Tội tham ô tài sản (khoản 4 Điều 353) và Tội nhận hối lộ (khoản 4 Điều 354). Đây là những trường hợp người phạm tội có hành vi chiếm đoạt tài sản trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên hoặc nhận hối lộ tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên hoặc gây thiệt hại về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên.

Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 21/8/2006 của Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí quy định: “Chú trọng thu hồi tài sản tham nhũng; áp dụng chính sách khoan hồng đối với những người phạm tội nhưng có thái độ thành khẩn, đã bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả kinh tế, hợp tác tốt với cơ quan chức năng”. Việc thể chế hóa chủ trương này đặt ra yêu cầu cần tiếp tục tăng cường hiệu quả công tác thu hồi tài sản do tham nhũng mà có. Như vậy, bên cạnh việc quy định các biện pháp xử lý hình sự nghiêm minh đối với người phạm tội tham nhũng, cần tiến hành đồng thời thu hồi tài sản, do đó, việc mở đường, tạo điều kiện để người phạm tội hối cải, hoàn lương, trở về đóng góp cho xã hội là một yêu cầu cần được đặt ra. Đây cũng là chủ trương tiếp nối nhiệm vụ “nghiên cứu hạn chế án tử hình trong BLHS” được nêu tại Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và nhiệm vụ “hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

Trong những năm qua, Việt Nam đã có những nỗ lực rất đáng kể trong việc hạn chế áp dụng hình phạt tử hình và thi hành án tử hình. Tính từ ngày 01/10/2022 đến ngày 30/9/2023, có hơn 1.200 bị cáo bị đưa ra xét xử sơ thẩm về các tội phạm tham nhũng, trong đó có 50 người bị tuyên án từ trên 15 năm đến 20 năm tù, 08 người bị tuyên án chung thân nhưng không ai bị tuyên án tử hình. Điều này cho thấy, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã và đang thực hiện nghiêm túc chủ trương hạn chế áp dụng hình phạt tử hình được khẳng định tại các nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp và chủ trương thu hồi tối đa tài sản do tham nhũng mà có, quy định tại điểm c khoản 3 Điều 40 BLHS năm 2015. Việc này có thể tránh được sai sót, vi phạm trong thi hành án nói riêng và tránh oan, sai trong tố tụng hình sự nói chung.

Việc hạn chế áp dụng hình phạt tử hình đối với người phạm tội tham nhũng và tiếp tục nghiên cứu dần tiến tới xóa bỏ hoàn toàn loại hình phạt này cũng thể hiện tính nghiêm minh của chính sách pháp luật hình sự ở chỗ, những quy định pháp luật phải được áp dụng trên thực tế, mọi hành vi tham nhũng cấu thành tội phạm phải bị xử lý mà không phải quy định những chế tài thật nghiêm khắc trong khi số lượng tội phạm lại ít hoặc không được đưa ra xử lý.

Nếu so sánh với xu hướng chung của nhiều quốc gia trên thế giới về việc bãi bỏ hình phạt tử hình hoặc ít nhất, không áp dụng hình phạt tử hình đối với những tội phạm phi bạo lực thì mức hình phạt nghiêm khắc nhất mà pháp luật hình sự Việt Nam nên áp dụng đối với người phạm tội tham nhũng là tù chung thân. Tham khảo kinh nghiệm lập pháp từ Trung Quốc, tác giả nhận thấy BLHS hiện hành của quốc gia này có đến 46 tội phạm quy định hình phạt tử hình nhưng trong đó, không có tội phạm tham nhũng nào. Hoặc trong BLHS Singapore, hình phạt tử hình được quy định ở 04 nhóm tội, bao gồm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội xâm phạm con người, các tội phạm về ma túy và các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Đối với nhóm tội phạm về chức vụ, BLHS Singapore không quy định hình phạt tử hình, nhưng Singapore vẫn được đánh giá là quốc gia có nền hành chính ít tham nhũng, tiến bộ.

Mở rộng khả năng áp dụng các hình phạt không tước tự do

Ở Việt Nam, trong Chiến lược cải cách tư pháp cũng cho thấy “giảm hình phạt tù” là một định hướng của chính sách pháp luật hình sự, cùng với yêu cầu “mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm”.

Trong giai đoạn 2018-2022, số người bị kết án về các tội phạm tham nhũng bị áp dụng hình phạt tiền là 11 người, bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ là 134 người trên tổng số 3.431 bị cáo bị đưa ra xét xử về các tội phạm tham nhũng. 11 người bị kết án bằng hình phạt tiền là những trường hợp Tòa án áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 54 BLHS năm 2015 để quyết định chuyển sang hình phạt tiền thuộc loại nhẹ hơn các hình phạt cải tạo không giam giữ và tù có thời hạn quy định ở các khoản 1 của các tội phạm tham nhũng. Tương tự như vậy, 134 người bị kết án phạt cải tạo không giam giữ không có nghĩa tất cả những người này đều phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ. Tòa án vẫn có thể áp dụng khoản 3 Điều 54 BLHS năm 2015 cho những tội phạm tham nhũng còn lại để quyết định chuyển sang hình phạt cải tạo không giam giữ thuộc loại nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn quy định ở các khoản 1 của các tội tương ứng. Điều này cho thấy, thực tiễn xét xử về các tội phạm tham nhũng trong nhiều năm qua vẫn có xu hướng tập trung vào việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người phạm tội (tỉ lệ hơn 72% trong giai đoạn 2018-2022), tuy nhiên, Tòa án có thể áp dụng các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù đối với các tội phạm này nếu xét thấy có đủ các điều kiện quy định của BLHS.

Hiện nay, trong các quy định của BLHS năm 2015 về các tội phạm tham nhũng, chỉ duy nhất Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 356) quy định hình phạt cải tạo không giam giữ là loại hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù. Ngoài ra, các loại hình phạt cảnh cáo, phạt tiền (với tư cách là hình phạt chính) không được quy định trong bất kỳ tội phạm cụ thể nào của nhóm tội này. Như đã phân tích ở trên, ngoài quy định tại khoản 1 Điều 356, Tóa án chỉ có duy nhất quy định tại Điều 54 BLHS năm 2015 để có thể quyết định hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn hình phạt tù.

Tham khảo kinh nghiệm lập pháp của các quốc gia khác về các tội phạm tham nhũng cho thấy, đa số các quốc gia đều quy định thêm các loại hình phạt khác nhẹ hơn hình phạt tù. Ví dụ, BLHS Liên bang Nga không quy định hình phạt tử hình và tù chung thân đối với các tội phạm tham nhũng. Hình phạt tiền là hình phạt thường được Tòa án ưu tiên áp dụng, sau đó đến các loại hình phạt khác. Bởi, quan điểm của các nhà làm luật Nga cho rằng đối với các tội phạm tham nhũng, việc xử phạt bằng chế tài phạt tiền sẽ mang lại hiệu quả hơn so với các loại hình phạt khác. Trong BLHS của Cộng hòa Liên bang Đức, các tội phạm tham nhũng được quy định từ Điều 331 đến Điều 357, trong đó các tội phạm này đều quy định hình phạt tiền vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung. Tương tự đối với BLHS của một số quốc gia Đông Nam Á như Thái Lan, phạt tiền là hình phạt chính được áp dụng song song với hình phạt tù đối với người phạm tội. Trong khi đó, BLHS năm 2015 chỉ quy định phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với nhóm tội phạm này và chỉ được quy định theo hướng tùy nghi áp dụng. Từ thực tiễn xét xử các tội phạm tham nhũng ở Việt Nam thời gian qua, tác giả kiến nghị bổ sung hình phạt tiền và hình phạt cải tạo không giam giữ vào các khung hình phạt cơ bản (tại khoản 1) của các tội phạm tham nhũng nhằm thể hiện sự hài hòa giữa chính sách nghiêm trị và chính sách nhân văn.

Một lý do quan trọng khác trong đường lối xử lý nhóm tội phạm này, đó là Nhà nước đặt mục tiêu thu hồi tài sản tham nhũng lên hàng đầu, nhằm khắc phục tình trạng bỏ trốn, chấp nhận đi tù, thậm chí chấp nhận bị tử hình; tài sản không có khả năng thu hồi.

Do đó, chủ trương áp dụng và mở rộng phạm vi các loại hình phạt thay thế cho hình phạt tù cần được cụ thể hóa cả trên phương diện lập pháp và áp dụng pháp luật.

Mở rộng khả năng áp dụng các biện pháp miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt

Các chế định miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt phản ánh chính sách pháp luật hình sự nhân đạo của Nhà nước trong luật hình sự. Các chế định này cho phép các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự trên cơ sở các quy định về miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt trong luật hình sự, xem xét, quyết định không buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự, chịu sự kết tội hoặc không buộc người phạm tội phải chịu hình phạt.

Khoản 4 Điều 92 Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định người có hành vi tham nhũng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, tích cực hợp tác với cơ quan có thẩm quyền, góp phần hạn chế thiệt hại, tự giác nộp lại tài sản tham nhũng, khắc phục hậu quả của hành vi tham nhũng thì được xem xét giảm hình thức kỷ luật, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Quy định này của Luật phòng, chống tham nhũng phù hợp với điểm c khoản 2 Điều 29 BLHS năm 2015.

Tuy nhiên, trong thời gian qua, việc áp dụng các biện pháp miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt đối với người phạm tội tham nhũng còn hạn chế. Tổng kết 10 năm thi hành Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 (từ ngày 01/10/2005 đến ngày 30/9/2015) cho thấy, trong số 4.323 vụ án tham nhũng với 11.080 bị cáo bị xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm đã miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt cho 30 bị cáo. Còn trong giai đoạn 2018-2022 (từ khi ban hành Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018), các Tòa án đã xét xử sơ thẩm 1.457 vụ án với 3.431 bị cáo về các tội phạm tham nhũng, trong đó chỉ có 14 trường hợp được tuyên bố miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt.

Theo quan điểm của tác giả, cần tăng cường áp dụng các biện pháp miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt đối với người phạm tội, đồng thời ưu tiên thu hồi tài sản.

Đối với trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự: Có những quy định cụ thể hơn về việc tăng cường khuyến khích, cho phép người phạm tội sau khi thực hiện hành vi tham nhũng, tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, tích cực hợp tác với cơ quan có thẩm quyền, góp phần hạn chế thiệt hại, tự giác nộp lại tài sản tham nhũng, khắc phục hậu quả của hành vi tham nhũng cũng có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Miễn trách nhiệm hình sự là quy định mang tính đặc biệt vì có thể giúp tịch thu tài sản tham nhũng không cần qua cơ chế bắt buộc phải xét xử như hiện nay.

Đối với trường hợp được miễn hình phạt: Khi người phạm tội đã tự giác nộp lại tài sản tham nhũng, khắc phục hậu quả của hành vi tham nhũng, Tòa án xem xét nếu thỏa mãn các điều kiện còn lại để được miễn hình phạt (quy định tại Điều 59, các khoản 1 và 2 Điều 51 BLHS năm 2015) thì cần có cơ chế ưu tiên thực hiện việc miễn hình phạt đối với người phạm tội.

Đây là sự cụ thể hóa của chủ trương “áp dụng chính sách khoan hồng đối với những người phạm tội nhưng có thái độ thành khẩn, đã bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả kinh tế, hợp tác tốt với cơ quan chức năng” của Đảng ta đối với các tội phạm tham nhũng. Nếu có thể thực hiện được đề xuất trên, việc thu hồi được tài sản thất thoát của Nhà nước một cách nhanh nhất là khả thi, không gây lãng phí thời gian và tiền bạc của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; hơn hết, thể hiện rõ mục tiêu của Đảng, Nhà nước hướng đến là việc người có chức vụ, quyền hạn có vi phạm tự nhận ra sai phạm của bản thân và tích cực khắc phục hậu quả. Đây là quan điểm tiệm cận sự phát triển văn minh của nền tư pháp Việt Nam là khoan hồng, nhân đạo, nhân văn, chú trọng đến các giải pháp phòng ngừa đối với các tội phạm tham nhũng. Để thực hiện được điều này, hệ thống pháp luật của Việt Nam cần tiếp tục được nghiên cứu sửa đổi để chặt chẽ, hoàn thiện hơn, tránh trường hợp lợi dụng việc khắc phục hậu quả để trốn tránh trách nhiệm.

Phạm Việt Nghĩa

Theo Tạp chí Kiểm sát in số 01/2025