VKSND huyện Tây Hòa (Phú Yên): Kháng nghị không cho bị cáo được hưởng treo, tăng bồi thường dân sự
Ngày đăng : 16:04, 22/01/2025
Trưa ngày 28/3/2022, Dương Văn Trừ (SN 1990, trú tại xã Hòa Mỹ Tây, huyện Tây Hòa, Phú Yên) cùng Phùng Kim Hóa và một số người khác tổ chức ăn nhậu tại thôn Thạnh Phú Đông, xã Hòa Mỹ Tây. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, mặc dù trong người có nồng độ cồn (0,803mg/lit khí thở) nhưng Trừ vẫn điều khiển xe mô tô biển số 78F1 353.99 chở Hóa lưu hành trên đường bê tông liên xã theo hướng đông - tây. Khi đi đến ngã tư giao nhau với đường bê tông đồng cấp thuộc thôn Thạnh Phú Đông, Trừ phát hiện xe mô tô biển số 78F1-274.50 do bà Nguyễn Thị Xuân Bình điều khiển chở bà Hồ Thị Gương lưu hành theo hướng bắc - nam đang đi vào ngã tư. Thấy vậy, Trừ điều khiển xe lấn sang trái để tránh xe bà Bình nhưng do khoảng cách gần nhau nên xe Trừ tung vào xe bà Bình, làm bà Gương bị thương tích được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Yên; Trừ, Hóa, bà Bình bị thương tích nhẹ; 02 xe mô tô bị hư hỏng nhẹ.
Tại bản giám định pháp y về thương tích số 276/2022/TgT ngày 29/8/2022 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Phú Yên kết luận: Bà Gương bị thương tích 99%.
Sau đó, Dương Văn Trừ bị khởi tố, điều tra, truy tố và đưa ra xét xử về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 23/2024/HSST ngày 27/9/2024 của TAND huyện Tây Hòa đã tuyên phạt bị cáo Dương Văn Trừ 03 năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm kể từ ngày tuyên án. Về trách nhiệm dân sự, buộc bị cáo bồi thường cho người bị hại Hồ Thị Gương 226.962.000đ, đã bồi thường 7.000.000đ, còn phải tiếp tục bồi thường 221.962.000đ; đồng thời có trách nhiệm trợ cấp cho bà Gương số tiền 1.750.000đ/tháng kể từ tháng 10/2024 cho đến khi chấm dứt nghĩa vụ thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 372 BLDS. Buộc bà Nguyễn Thị Xuân Bình phải bồi thường cho bị hại số tiền 75.654.000đ, đã bồi thường 7.000.000đ, còn phải bồi thường 68.654.000đ. Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 02/10/2024, bị cáo Trừ có đơn kháng cáo kêu oan. Ngày 07/10/2024, ông Lê Minh Quốc, con của bị hại Hồ Thị Gương kháng cáo cho rằng quá trình xét xử, bị cáo Trừ quanh co chối tội, không hối lỗi, không quan tâm, thăm nom người bị hại nên yêu cầu tăng hình phạt, không cho bị cáo hưởng án treo, tăng bồi thường dân sự.
Ngày 10/10/2024, VKSND huyện Tây Hòa kháng nghị, đề nghị TAND tỉnh Phú Yên xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm theo hướng không áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS đối với bị cáo, không cho bị cáo hưởng án treo và tăng mức bồi thường dân sự của bị cáo đối với bị hại.
Tại phiên tòa phúc thẩm mới đây, bị cáo vẫn giữ nguyên kháng cáo, cho rằng Cơ quan tố tụng điều tra không đầy đủ, bỏ lọt tội phạm. Biên bản khám nghiệm hiện trường không có đại diện Viện kiểm sát, khi lập biên bản không có mặt nhưng biên bản ghi bà Bình có mặt ký biên bản (sai lệch hồ sơ); biên bản thực nghiệm điều tra ghi không đúng hiện trường lúc xảy ra tai nạn. Về tốc độ xe không nêu được tốc độ các xe, vết nứt trên các xe không giám định được, bà Bình không thuộc đường ưu tiên. Bà Bình không có giấy phép lái xe. Lỗi gây ra tai nạn hoàn toàn của bà Bình, bị cáo không có lỗi. Bị cáo và luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị HĐXX tuyên bị cáo không phạm tội.
Đại diện VKSND tỉnh Phú Yên thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa phát biểu quan điểm giải quyết vụ án đề nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; chấp nhận kháng nghị của VKSND huyện Tây Hòa và kháng cáo của đại diện hợp pháp bị hại, sửa bản án sơ thẩm theo hướng không áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS đối với bị cáo và xử phạt bị cáo Trừ từ 03 năm tù đến 04 năm tù về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Về trách nhiệm dân sự, buộc bị cáo phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người bị hại và tăng bồi thường về tổn thất về tinh thần từ 40 đến 45 tháng lương cơ sở, buộc bị cáo bồi thường chi phí hợp lý cho người chăm sóc bị hại.
Tại phiên tòa phúc thẩm, căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử TAND tỉnh Phú Yên nhận định:
Sau khi xảy ra tai nạn, lực lượng Cảnh sát giao thông Công an huyện Tây Hòa tiếp nhận sự việc, tiến hành khám nghiệm và lập biên bản khám nghiệm hiện trường, chụp ảnh hiện trường theo Bản ảnh tuy không có đại diện VKSND huyện Tây Hòa nhưng trình tự, thủ tục được thực hiện đúng theo quy định của Thông tư số 63/2020/TT-BCA ngày 19/6/2020. Khi lập biên bản hiện trường ngày 28/3/2022, bị cáo Trừ có mặt cho đến lúc kết thúc, tại biên bản này có ghi “Hiện trường bị xáo trộn do quá trình đưa nạn nhân đi cấp cứu, sự tác động của con người và phương tiện qua lại”, tuy nhiên các nội dung mô tả về hiện trường và quá trình khám nghiệm đã được ghi nhận đầy đủ thực tế về hiện trường chung, vị trí các xe mô tô, vị trí nằm của bị hại, các dấu vết trên đường, được bị cáo Trừ ký xác nhận. Tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm bị cáo Trừ cũng thống nhất nội dung bị cáo đã được nghe đọc và đọc lại biên bản và ký xác nhận, xác nhận Biên bản hiện trường lập ngày 28/3/2022 là đúng thực tế xảy ra. Thời điểm lập Biên bản khám nghiệm hiện trường, bà Bình vắng mặt (Bà Bình đưa người đi cấp cứu), nhưng sau đó, bà Bình có đọc lại biên bản, thống nhất không khiếu nại gì về việc này và ký vào biên bản. Tại phiên tòa sơ thẩm, bà Bình thống nhất việc bà ký vào biên bản, không khiếu nại gì. Bị cáo và luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng Biên bản thực nghiệm điều tra không đúng với hiện trường lúc xảy ra tai nạn nhưng chỉ là sự suy đoán và không cung cấp được chứng cứ chứng minh và xét thấy biên bản thực nghiệm điều tra lập đúng theo mô tả của biên bản khám nghiệm hiện trường lập ngày 28/3/2022 nên đúng với hiện trường xảy ra lúc tai nạn.
Như vậy, không có cơ sở cho rằng các văn bản trên vi phạm tố tụng, không có cơ sở cho rằng đã có sự cố ý làm sai lệch hồ sơ. Cấp sơ thẩm nhận định “các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật” là có căn cứ, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo về nội dung này.
Xét kháng cáo của bị cáo về tội danh thấy rằng: Căn cứ lời khai của bị cáo, đại diện bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng; căn cứ các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra đầy đủ tại phiên tòa, đủ cơ sở kết luận: Hành vi của bị cáo điều khiển xe mô tô (khi đã sử dụng rượu bia) qua đoạn đường giao nhau đồng mức, hướng đi từ đông -tây của bị cáo có tầm nhìn bị hạn chế nhưng không giảm tốc độ để đảm bảo an toàn, không nhường đường là nguyên nhân gây tai nạn với xe mô tô do bà Bình điều khiển theo hướng bắc -nam, tai nạn xảy ra tại ngã tư nơi giao nhau với đường không có vòng xuyến, trên phần đường lưu hành của bà Bình nên bị cáo Trừ đã vi phạm Điều 12, khoản 1 Điều 24 Luật giao thông đường bộ và khoản 2, 3 Điều 5 Thông tư 31/2019/TT-BGTVT ngày 29/8/2019 của Bộ giao thông vận tải. Hậu quả, bà Gương bị thương tích 99%, bị cáo Trừ, ông Hóa, bà Bình bị thương tích nhẹ (đều từ chối giám định).
Đối với hành vi của bà Nguyễn Thị Xuân Bình điều khiển xe mô tô không có giấy phép lái xe hạng A1 theo quy định chở bà Gương tham gia giao thông đường bộ đã vi phạm điểm a khoản 5 Điều 21 Nghị định số 100/2019/NĐ-CP nhưng đến thời điểm kết thúc điều tra đã hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính nên Cơ quan điều tra không đề nghị cơ quan chức năng xử phạt vi phạm hành chính là có cơ sở. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 260 BLHS. Do đó, TAND huyện Tây Hòa xét xử bị cáo Trừ về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 260 BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Trong vụ án tai nạn này, lỗi hoàn toàn do bị cáo gây ra. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo nhận thức pháp luật chưa đúng, cho rằng bà Bình tông vào bị cáo gây tai nạn, bị cáo chỉ có lỗi uống rượu bia tham gia giao thông nên bị cáo không có tội, cấp sơ thẩm xét bị cáo đã thành khẩn khai báo theo điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS là không đúng. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo vẫn không nhận tội, do đó HĐXX chấp nhận kháng nghị của Viện KSND huyện Tây Hòa và đề nghị của Kiểm sát viên, không xét bị cáo Trừ có tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.
Về bồi thường thiệt hại: Do nhận thức bị cáo không có tội nên số tiền bị cáo đã đưa cho gia đình bị hại bị cáo cho là hỗ trợ chứ không phải bồi thường do mình có lỗi gây ra, cấp sơ thẩm xét số tiền bị cáo đã đưa trước cho gia đình bị hại là đã bồi thường một phần thiệt hại để áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.
Đối với nhận định “Mặt khác, trong vụ việc này, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là bà Nguyễn Thị Xuân Bình (không có giấy phép lái xe) điều khiển xe mô tô đã thiếu quan sát nên bà Bình cũng có một phần lỗi” tại bản án sơ thẩm là không có căn cứ vì bà Bình không có lỗi trong vụ án này. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo vẫn kháng cáo kêu oan và không bồi thường thêm bất cứ khoản tiền nào cho bị hại, cấp sơ thẩm áp dụng quy định tại Điều 65 BLHS cho bị cáo hưởng án treo là không đảm bảo giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Do đó, HĐXX chấp nhận kháng nghị của VKSND huyện Tây Hòa, kháng cáo của đại diện hợp pháp bị hại và đề nghị của Kiểm sát viên, xử phạt bị cáo hình phạt tù, không áp dụng Điều 65 BLHS cho bị cáo được hưởng án treo.
Về trách nhiệm dân sự: Xét thấy Trừ có lỗi hoàn toàn trong vụ tai nạn, tại phiên tòa sơ thẩm bà Bình chấp nhận bồi thường nếu xác định bà có lỗi, bản án sơ thẩm xác định bà Bình có một phần lỗi và buộc bà Bình bồi thường ½ thiệt hại là không đúng. Tuy bà Bình không kháng cáo nội dung bản án sơ thẩm đã tuyên nhưng VKS có kháng nghị về nội dung này nên cần chấp nhận kháng nghị của VKSND huyện Tây Hòa và đề nghị của Kiểm sát viên, buộc bị cáo Trừ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại. Về số tiền bà Bình đã hỗ trợ bị hại 7.000.000đ bà Bình không kháng cáo, tại phiên tòa phúc thẩm không có mặt trình bày nên không xét. Đối với tổn thất tinh thần, xét bà Gương bị tổn thương cơ thể 99%, không thể tự chăm sóc được bản thân, hoàn cảnh gia đình quá khó khăn, có 2 người con bị bệnh tâm thần, do đó cần chấp nhận kháng nghị của VKS, đề nghị của Kiểm sát viên và kháng cáo của đại diện hợp pháp bị hại, tăng mức bồi thường lên 40 tháng lương cơ sở (93.600.000đ). Tiền công chăm sóc, mất thu nhập của người nuôi bệnh từ tháng 3/2022 đến ngày xét xử sơ thẩm tháng 9/2024 là 31 tháng (124.000.000đ), chấp nhận yêu cầu của đại diện hợp pháp bị hại, đề nghị của Kiểm sát viên, tăng thêm khoản này 12 tháng (48.000.000đ).
Từ đó, TAND tỉnh Phú Yên đã tuyên chấp nhận chấp nhận kháng nghị của VKSND huyện Tây Hòa và kháng cáo của đại diện hợp pháp bị hại, tuyên phạt bị cáo Dương Văn Trừ 03 năm tù về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Dương Văn Trừ phải bồi thường cho bị hại số tiền 448.716.083đ, đã bồi thường 7.000.000đ, còn phải tiếp tục bồi thường 441.716.083đ. Đồng thời bị cáo có trách nhiệm trợ cấp cho bà Hồ Thị Gương số tiền 1.750.000đ/tháng kể từ tháng 10/2024 cho đến khi chấm dứt nghĩa vụ thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 372 BLDS.