VKSND cấp cao tại Đà Nẵng kháng nghị hủy án phúc thẩm, giữ nguyên án sơ thẩm vụ án liên quan đến đất đai​​

Ngày đăng : 15:45, 06/01/2025

(Kiemsat.vn) - Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nẵng vừa ban hành Kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản án phúc thẩm dân sự số 47/2024/DS-PT ngày 25/6/2024 của TAND tỉnh Phú Yên xét xử vụ án "Công nhận quyền sử dụng đất và đòi lại quyền sử dụng đất do lấn chiếm" giữa nguyên đơn là vợ chồng ông NQK, bà HTG và bị đơn là ông PHT (cùng trú tại xã An Ninh Đông, huyện Tuy An, Phú Yên).
Theo trình bày của vợ chồng nguyên đơn: Ngày 20/10/1999, ông K, bà G nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông TVH thửa 68, tờ bản đồ số 33, diện tích 400m² loại đất ở và 0,2 ha đất rừng liền kề đất ở. Đối với diện tích đất ở, vợ chồng ông K đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên không khởi kiện. Đối với diện tích đất lâm nghiệp 0,2ha, sau khi nhận chuyển nhượng vợ chồng ông, bà sử dụng ổn định, có công trình phụ, trại nuôi heo và 02 hầm biogas xây năm 2010, một số cây trồng, quá trình sử dụng không ai tranh chấp. Khoảng tháng 3/2020, ông PHT tự ý xây dựng hàng rào, lấn chiếm khoảng 240m2 đất. Vì vậy, ông K, bà G yêu cầu Tòa án công nhận diện tích đất lâm nghiệp đã nhận chuyển nhượng và buộc ông T phải trả lại diện tích đất đã lấn chiếm cho ông bà.

Hình ảnh minh họa Kiểm sát viên VKSND cấp cao tại Đà Nẵng kiểm sát xét xử tại một phiên tòa dân sự.

Bị đơn (ông T) và đại diện theo ủy quyền trình bày: Ông T có xây dựng hàng rào lấn ra ngoài phạm vi đất do ông quản lý sử dụng. Tuy nhiên, đây là diện tích đất ông T mua của vợ chồng ông TVH với giá khoảng 3.000.000đ hay 4.000.000đ (ông không nhớ) và mua bằng miệng, không có giấy tờ gì. Khi nào ông H yêu cầu thì ông T trả lại diện tích đất này.

Theo người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là vợ chồng ông TVH: Năm 1999, vợ chồng bà có bán cho mẹ ruột bà G đất nhà ở 400m2, không bán diện tích đất lâm nghiệp 0,2ha. Ông H chỉ cho ông T sử dụng để nuôi gà, trông coi đất. Vợ chồng ông H có yêu cầu độc lập buộc vợ chồng ông K, bà G trả lại 0,2ha đất lâm nghiệp đo đạc thực tế 936,2m2 cho vợ chồng ông.

Phiên tòa sơ thẩm ngày 28/9/2023, TAND huyện Tuy An đã quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông NQK, bà HTG đối với ông PHT; không chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập (vợ chồng ông H) đối với vợ chồng ông K, bà G.

Công nhận quyền sử dụng đất của vợ chồng ông K, bà G đối với diện tích đất theo sổ lâm bạ số 149 theo Quyết định số 251/UB ngày 16/7/1999 của UBND huyện Tuy An, đo đạc thực tế 936,2m2. Buộc ông T trả lại diện tích đất 281,5m2 đất lấn chiếm cho vợ chồng ông K, bà G sử dụng. Vợ chồng ông K, bà G có trách nhiệm liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để làm thủ tục hành chính về đất đai.

Về tài sản trên đất: Buộc ông T tháo dỡ toàn bộ công trình tường rào, móng đá lưới B40 và thu hoạch cây trồng trên đất, trả lại diện tích đất cho vợ chồng ông K sử dụng.

Sau đó, bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập kháng cáo không đồng ý với bản án sơ thẩm. Bản án dân sự phúc thẩm số 47/2024/DS-ST ngày 25/6/2024 của TAND tỉnh Phú Yên đã chấp nhận kháng cáo của bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập, sửa bản án sơ thẩm:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi của nguyên đơn vợ chồng ông NQK, bà HTG đối với bị đơn ông PHT.

2. Chấp nhận kháng cáo và yêu cầu độc lập của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vợ chông ông TVH đối với vợ chồng ông K, bà G.

3. Công nhận quyển sử dụng dất của vợ chồng ông TVH đối với diện tích đất theo Sổ lâm bạ số 149 theo quyết định số 251/UB, ngày 16/7/1999 của UBND huyện Tuy An đo đạc thực tế 936,2m2. Vợ chồng ông H có trách nhiệm liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền làm các thủ tục hành chính về đất đai.

4. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông PHT được tiếp tục sử dụng diện tích 281,5m2 của vợ chồng ông H quản lý sử dụng mà vợ chồng ông K tranh chấp.

5. Về các tài sản trên đất: Ông T được quyền sử dụng toàn bộ công trình tường rào móng đá lưới B40 gắn liền với đất và cây trồng trên diện tích 281,5m2 đất mà vợ chồng ông K tranh chấp.

VKSND cấp cao tại Đà Nẵng xét thấy: Ông TVH được UBND huyện Tuy An giao 0,2ha đất lâm nghiệp theo Quyết định giao đất số 251/UB ngày 16/7/1999. Hạt kiểm lâm Tuy An bàn giao đất cho ông H và cấp sổ Lâm bạ số 149 ngày 28/7/1999. Bản đồ giao đất lâm nghiệp thể hiện giao cho ông TVH diện tích 0,2 ha ký hiệu TK 140, thuộc khu vực bãi cát Phú Sơn, xã An Ninh Đông, huyện Tuy An, Phú Yên.

Ngày 20/10/1999, ông TVH và ông NQK, bà HTG lập Giấy thỏa thuận chuyển nhượng đất nhà ở, có nội dung: “Vậy hôm nay tôi viết giấy thỏa nhượng này cho ông bà NQK và bà HTGi được trọn quyền sử dụng mảnh đất nói trên có Quyết định của UBND huyện Tuy An cấp kèm theo sau (và DT đất lâm nghiệp rừng diện tích 0,2ha) vợ chồng ông K, bà G được trọn quyền quản lý, sử dụng”. Giấy này có ông VVT đại diện Ban dân chính thôn Phú Sơn xác nhận ngày 21/10/1999.

Kết quả đo đạc hiện trạng thể hiện tổng diện tích đất lâm nghiệp là 936,2m2; trong đó, diện tích đất tranh chấp là 281,5m2. Hiện các bên chỉ tranh chấp đối với diện tích đất lâm nghiệp.

Xét Giấy thỏa thuận chuyển nhượng đất nhà ở có nội dung ông H đã chuyển nhượng cho vợ chồng ông K, bà G 0,2ha đất lâm nghiệp có Quyết định của UBND huyện Tuy An là phù hợp với việc ông K là người giữ các giấy tờ gốc về việc UBND huyện Tuy An giao đất cho ông H gồm: Sổ Lâm bạ số 149 ngày 28/7/1999; Quyết định giao đất số 251/UB ngày 16/7/1999; biên bản bàn giao đất lâm nghiệp ngày 16/7/1999, bản đồ bàn giao đất Lâm nghiệp.

Ông H cho rằng ông không biết chữ và không ký vào giấy chuyển nhượng nhưng quá trình giải quyết vụ án thể hiện ông H ký và viết được tên mình. Tại phiên tòa, vợ ông H thừa nhận chữ “h…” trong giấy chuyển nhượng là chữ của ông H, phù hợp với lời khai của ông K, bà G...

UBND huyện Tuy An và UBND xã An Ninh Đông, huyện Tuy An xác định: Nguồn gốc đất là do UBND huyện Tuy An giao đất lâm nghiệp cho ông TVH. Hiện do vợ chồng ông K sử dụng phía bắc; một phần diện tích đất đang tranh chấp do ông T sở dụng (không thuộc phần đất ông T kê khai theo NĐ 64/CP); đây là đất rừng phòng hộ; đủ điều kiện để đăng ký cấp giấy chứng nhận QSD đất theo điều 99 Luật đất đai.

Trên thực tế diện tích đất tranh chấp do ông K sử dụng từ năm 1999 đến nay và có các tài sản gắn liền với đất gồm chuồng heo có diện tích 106,4m2, 30 trụ bê tông, 5 hầm biogas và 40 cây trồng các loại. Vợ chồng ông H ở cùng địa phương, biết nhưng không có ý kiến gì, giấy chuyển nhượng ngày 20/10/1999 thể hiện các bên đã giao nhận tiền. Lời khai của vợ chồng ông H về việc không chuyển nhượng diện tích đất lâm nghiệp là không có chứng cứ chứng minh, không phù hợp với các chứng cứ khác nên không có cơ sở chấp nhận. Căn cứ điểm a.6,b, b.3 tiểu mục 2.3 khoản 2 mục II Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 15/4/2004 và Án lệ số 04/2016/AL có cơ sở xác định vợ chồng ông H đã chuyển nhượng cho vợ chồng ông K, bà G 0,2ha đất lâm nghiệp.

Lời khai của ông T về việc đã nhận chuyển nhượng diện tích đất tranh chấp không phù hợp với lời khai của vợ chồng ông H và không có chứng cứ chứng minh.

Bản án phúc thẩm nhận định: “Tuy nhiên, tại giấy thỏa thuận chuyển nhượng đất nhà ở lập ngày 20/10/1999, do nguyên đơn cung cấp có nội dung.... là do ông NQK tự viết giấy ngụy tạo và tự ký tên “hết” bên người chuyển nhượng và tự ký tên “K” bên người nhận chuyển nhượng là hoàn toàn không đúng sư thật. Ông H chỉ cho ông PHT mượn sử dụng...” và việc không giám định được chữ “h…” trên giấy chuyển nhượng để công nhận diện tích đất lâm nghiệp qua đo đạc thực tế 936,2m2; trong đó, có 281,5m2 đất đanh tranh chấp cho vợ chồng ông H là đánh giá chứng cứ không khách quan, toàn diện, gây ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng ông K, bà G vi phạm Điều 108 BLTTDS.

Bản án sơ thẩm xác định việc chuyển nhượng theo giấy chuyển nhượng ngày 20/10/1999 là có thật và chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, đúng pháp luật.

Ngoài ra bản án phúc thẩm công nhận quyền sử dụng đất theo sổ lâm bạ số 149 có diện tích thực tế 936,2m2 cho vợ chồng ông H, nhưng không buộc vợ chồng ông K, bà G giao trả lại diện tích đất đang sử dụng và không giải quyết tài sản trên đất của ông K, bà G là không đúng, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông K, bà G.

Từ đó, Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nẵng quyết định: Kháng nghị đối với bản án dân sự phúc thẩm số 47/2024/DS-ST ngày 25/6/2024 của TAND tỉnh Phú Yên. Đề nghị UBTP TAND cấp cao tại Đà Nẵng xét xử giám đốc thẩm, hủy toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm nêu trên, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 27/2023/DS-ST ngày 28/9/2023 của TAND huyện Tuy An. Tạm đình chỉ thi hành Bản án dân sự phúc thẩm số 47/2024/DS-ST ngày 25/6/2024 của TAND tỉnh Phú Yên cho đến khi có quyết định giám đốc thẩm.

Giang Thu - Thu Thu