VKSND thành phố Hà Nội phối hợp tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm trực tuyến vụ án dân sự phúc thẩm “Đòi quyền sử dụng đất nhà thờ họ”
Ngày đăng : 16:00, 20/11/2024
Toàn cảnh phiên tòa tại phòng xử án TAND thành phố Hà Nội. |
Vụ án được lựa chọn tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm trực tuyến là vụ án dân sự phúc thẩm “Đòi quyền sử dụng đất nhà thờ họ” giữa các đương sự: Nguyên đơn - ông Trương Văn H, sinh năm 1963 (đại diện dòng họ); bị đơn - ông Trương T.L (Trương Văn L), sinh năm 1946 có cùng địa chỉ tại xã Viên Nội, huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đây là vụ án phức tạp, có sự tham gia của nhiều đương sự là thành viên các dòng viên dòng họ Trương Q cùng các con, cháu, anh chị em của bị đơn. Tranh chấp trong vụ án thuộc dạng phổ biến, diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là ở các huyện ngoại thành - nơi có các dòng họ lớn tồn tại từ lâu đời; liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của nhiều người và có đan xen yếu tố tâm linh, truyền thống của một cộng đồng người tại những địa phương nhất định.
Phòng xử án tại điểm cầu trung tâm TAND thành phố Hà Nội kết nối đến điểm cầu VKSND thành phố Hà Nội và 30 VKSND cấp quận, huyện thuộc thành phố Hà Nội.
Hội đồng xét xử tại phiên tòa. |
Theo hồ sơ vụ án, nguyên đơn - ông Trương Văn H trình bày, nhà thờ họ Trương Q thuộc thửa đất số 10, TBĐ số 7, diện tích 202,7m2, hiện chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại xã Viên Nội, Ứng Hòa, thành phố Hà Nội đã có từ lâu, trải qua nhiều đời, là tài sản chung của dòng họ, là nơi thờ tự tâm linh của dòng họ được lưu truyền qua nhiều thế hệ, thể hiện ở việc nhà thờ có văn bia thờ các vị tiền bối của dòng họ.
Trước những năm 1950, nhà thờ có 03 gian gỗ lim; do ai xây dựng thì ông không rõ. Đến năm 1956, cụ Trương Văn Tr (bố ông Trương Văn L - bị đơn) khi đó là trưởng họ và là người trông nom, thờ cúng của dòng họ đã xây dựng thêm 03 gian nhà tranh bên cạnh nhà thờ họ để ở, sinh hoạt và lo việc thờ tự vì theo tục lệ thì cụ Tr và sau này là ông L, anh B (con ông L) đều là trưởng họ vì là chi 1 trong tổng 04 chi. Đây là tục lệ của dòng họ có từ lâu đời và được truyền lại cho đến nay.
Đến năm 1979, cụ Tr xin phép dòng họ chuyển hướng nhà thờ vì trước đây nhà thờ xây ngang so với thửa đất, nay xây dọc theo khổ đất, hướng quay ra ngõ. Năm 1989, cụ Tr chết. Ông L tiếp nhận vị trí trưởng họ. Năm 2010, anh B xây nhà trên ½ diện tích đất nhà thờ (nhà 02 tầng, 01 tum) để vợ và các con sinh sống.
Năm 2019, sau khi dòng họ cùng ông L và anh B nhất trí, ngôi nhà thờ cũ được hạ giải để xây dựng nhà thờ mới, kinh phí xây dựng do các thành viên dòng họ đóng góp. Sau khi hạ giải, dòng họ tiến hành đào móng, xây móng nhà thờ trên nền nhà thờ cũ; móng xây cao khoảng 1m so với nền cũ thì ông Trương DN - đã chết năm 2021 (em ruột ông L) về phản đối vì cho rằng toàn bộ thửa đất là của gia đình cụ Tr và không đồng ý xây nhà thờ theo hướng mới, yêu cầu xoay lại theo hướng cũ (quay ngang) nên việc xây dựng nhà thờ phải dừng lại. Năm 2020, khi tranh chấp chưa được giải quyết thì ông L và vợ chồng anh B xây thêm 01 gian nhà để vợ chồng ông L ở.
Ngày 10/9/2022, ông H khởi kiện đề nghị Tòa án buộc gia đình ông L phải trả lại dòng họ Trương Q toàn bộ thửa đất tranh chấp. Việc anh B, ông L đã xây dựng nhà từ năm 2010 cho đến nay, dòng họ vẫn đồng ý cho sử dụng, không yêu cầu phá dỡ, di dời, bồi thường hoặc thanh toán tiền trả lại dòng họ. Phần đất còn lại và móng nhà thờ xây năm 2019, 2020 thì để dòng họ tiếp tục xây dựng và hoàn thiện, kể cả phần sân phía trước.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án. |
Bị đơn - ông Trương T.L trình bày: Bố mẹ ông chết không để lại di chúc. Lúc còn trẻ, vợ chồng ông đều đi công nhân xây dựng, đến khi nghỉ hưu thì ông bà về quê sinh sống và tiếp quản toàn bộ tài sản do bố mẹ ông để lại bao gồm 4,5 gian nhà cấp 4, lợp ngói di trên thửa đất tranh chấp. Năm 1979, khi bố ông về hưu có ý kiến với dòng họ về việc xây dựng lại nhà thờ vì quá cũ nát nên xây dược 03 gian nhà thờ và 1,5 gian buồng để ở. Các cụ đời trước vẫn thờ tổ họ trên diện tích đất hiện nay.
Về nguồn gốc đất, theo hồ sơ địa chính xã, thửa đất trên mang tên bố ông là cụ Tr, còn trước đó đất đứng tên ai thì ông không rõ. Sau khi cụ Tr chết thì ông là người tiếp quản việc trông nom diện tích đất và thờ cúng của dòng họ. Năm 2020, sau khi thống nhất việc xây dựng nhà thờ, do bất đồng quan điểm nên xảy ra tranh chấp.
Điểm cầu VKSND thành phố Hà Nội theo dõi phiên tòa trực tuyến. |
Tại phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên đã kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký và những người tham gia tố tụng, hỏi các đương sự để làm rõ nội dung liên quan đến vụ án.
Phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử: Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn; căn cứ khoản 2 Điều 308 BLTTDS; Điều 208, 211 BLDS năm 2015, sửa một phần bản án sơ thẩm theo hướng:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Xác định phần diện tích 47,6m2 thuộc thửa đất số 10, TBĐ số 7 tại thôn Thượng, xã Viên Nội, Ứng Hòa, Hà Nội, trên có nhà thờ họ và sân là tài sản chung thuộc quyền sở hữu, sử dụng hợp pháp của dòng họ Trương Q. Buộc bị đơn và những người liên quan phải bàn giao trả lại cho dòng họ Trương Q do ông Trương Văn H là đại diện.
Xác định phần đất còn lại có diện tích 152,4m2 thuộc thửa đất số 10, TBĐ số 7 tại thôn Thượng, xã Viên Nội, Ứng Hòa, Hà Nội là của cụ Tr, cụ H (đã chết); giao cho các đồng thừa kế của cụ Tr, cụ H quản lý, sử dụng.
Bổ sung nội dung các đương sự có quyền liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để đăng ký, kê khai, xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần diện tích đất được giao trên cơ sở bản án.
Tại phiên tòa, ý kiến về việc giải quyết vụ án của Kiểm sát viên đã được Hội đồng xét xử chấp nhận. Chủ tọa phiên tòa mong rằng khi đã có quyết định xét xử của Tòa án, các thành viên trong dòng họ tôn trọng thực hiện và giữ gìn sự đoàn kết.
Đồng chí Bùi Thị Hồng Anh, Phó VIện trưởng VKSND thành phố Hà Nội và đồng chí Nguyễn Thị Hà, Phó Chánh án TAND thành phố Hà Nội theo dõi xét xử trực tuyến tại điểm cầu VKSND thành phố Hà Nội. |
Sau khi kết thúc phiên toà, VKSND thành phố Hà Nội và TAND thành phố Hà Nội đã tổ chức họp rút kinh nghiệm với thành phần gồm tất cả các Kiểm sát viên, Thẩm phán tham dự phiên tòa. Tại cuộc họp, các ý kiến đóng góp đã chỉ ra những ưu điểm của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử, cũng như những hạn chế cần rút kinh nghiệm trong thời gian tới. Đây cũng là dịp để các Kiểm sát viên Phòng 9, Phòng 10 VKSND thành phố Hà Nội và Kiểm sát viên làm công tác dân sự tại các đơn vị VKSND cấp huyện thuộc thành phố Hà Nội tích lũy thêm kinh nghiệm về chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng tại phiên tòa; đặc biệt là nâng cao chất lượng phát biểu của Kiểm sát viên và tăng cường việc ứng dụng công nghệ thông tin trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.