Về hành vi “đưa hối lộ cho công chức nước ngoài” ở một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam

Ngày đăng : 14:01, 21/10/2024

(Kiemsat.vn) - Qua tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia như Hoa Kỳ, Thụy Điển và Nhật Bản cho thấy, đối với hành vi hối lộ công chức nước ngoài thì xử lý hình sự không phải là giải pháp duy nhất hoặc đầu tiên. Cơ chế pháp lý để phòng ngừa, phát hiện hành vi này mới là giải pháp hàng đầu và căn bản.

1. Quy định về hành vi hối lộ công chức nước ngoài của một số quốc gia trên thế giới

1.1. Trong pháp luật hình sự Thụy Điển

Các tội phạm về hối lộ được quy định tại 02 chương của Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999 của Thụy Điển. Cụ thể, Tội đưa hối lộ được quy định tại Chương XVII (Các tội xâm phạm hoạt động công), trong khi Tội nhận hối lộ được quy định tại Chương XX (Về lạm dụng quyền hạn và các tội phạm có liên quan khác). Cụ thể:

Điều 17 BLHS Thụy Điển quy định về Tội đưa hối lộ như sau: Người nào đưa, hứa đưa hoặc mời nhận của hối lộ hoặc những khoản thưởng không chính đáng khác cho một nhân viên hoặc những người khác được quy định tại Chương XX, Điều 2, vì lợi ích của người đó hoặc của bất kì người nào khác, để gây ảnh hưởng đến việc thực hiện chức trách của người nhận, sẽ bị xử phạt tiền hoặc phạt tù cao nhất đến hai năm về Tội đưa hối lộ. Phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù với mức thấp nhất là 06 tháng và cao nhất là 06 năm.

Điều 2 BLHS Thụy Điển quy định về Tội nhận hối lộ như sau: Nhân viên nào, vì lợi ích của người đó hoặc bất kì người nào khác, nhận, chấp nhận lời hứa hoặc lời đề nghị đưa của hối lộ hoặc khoản thưởng không chính đáng khác vì việc thực hiện chức trách của người đó, sẽ bị phạt tiền hoặc phạt tù cao nhất đến hai năm về Tội nhận hối lộ. Điều này cũng được áp dụng cả trong trường hợp người đó thực hiện hành vi trước hoặc sau khi đảm nhiệm chức trách tại nhiệm sở. Nếu tội phạm bị xem là nghiêm trọng, hình phạt tù được áp dụng thấp nhất là 06 tháng và cao nhất là 06 năm.

Từ những quy định trên, có thể rút ra những yếu tố đặc trưng về chủ thể của hai tội phạm hối lộ trong luật hình sự Thụy Điển như sau:

Chủ thể của Tội đưa hối lộ có thể là bất kì cá nhân nào có năng lực trách nhiệm hình sự. Theo pháp luật hình sự Thụy Điển, chỉ con người với tư cách là thực thể tự nhiên mới có thể là chủ thể của tội phạm và bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, BLHS Thụy Điển vẫn tạo ra cơ sở pháp lý và chế tài pháp lý phù hợp để xử lý pháp nhân trong trường hợp cá nhân đại diện cho pháp nhân đó thực hiện hành vi đưa hối lộ khi đang tiến hành hoạt động kinh tế của pháp nhân và xuất phát từ lợi ích của pháp nhân đó; đồng thời, pháp nhân đã không có giải pháp cần thiết để ngăn ngừa tội phạm xảy ra. Việc xử lý pháp nhân trong trường hợp này sẽ theo quy định từ Điều 1 đến Điều 10 Chương XXXVI BLHS Thụy Điển (quy định về biện pháp tịch thu tài sản hoặc phạt tiền pháp nhân). Pháp nhân có thể bị phạt tiền từ mười nghìn đến ba triệu cu-ron Thụy Điển. Về biện pháp xử lý pháp nhân, có ý kiến cho rằng, đây có thể coi là “cái gần như là trách nhiệm hình sự” và “có thể được áp dụng cả đối với các doanh nghiệp nhà nước”. Vậy làm thế nào để Toà án xác định trách nhiệm hình sự đối với các cá nhân trong trường hợp hành vi phạm tội có liên quan đến một pháp nhân? Lời giải thích được đưa ra như sau:

Nếu hành vi đưa hối lộ được thực hiện bởi một nhân viên nhân danh công ty, người này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự với vai trò là người đồng phạm. Nếu việc đưa hối lộ được thực hiện theo yêu cầu của công ty hoặc công ty biết được việc thực hiện đó, ví dụ: Các khoản hoa hồng được chi lớn tới mức người ta có thể giả định rằng phần lớn của những khoản đó được sử dụng như của hối lộ, thì người đại diện hợp pháp của công ty sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự với vai trò là người thực hiện.

Như vậy, theo pháp luật hình sự Thụy Điển, chỉ cá nhân mới có thể là chủ thể của các tội phạm về hối lộ và chịu các chế tài hình sự nếu phạm các tội này. Tuy nhiên, ở một chừng mực nào đó, BLHS Thụy Điển đã quy định chế tài (mang tính hành chính) xử lý pháp nhân có liên quan tới các hành vi hối lộ.

Chủ thể của Tội nhận hối lộ được gọi chung là “nhân viên”. “Nhân viên” là người làm việc ở tất cả các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp của cả hai khu vực công và tư. Chính vì xác định đây là một thuật ngữ rất chung và không rõ ràng, nên nhà làm luật đã giải thích ngay trong luật về phạm vi những chủ thể được coi là “nhân viên”. Khái niệm nhân viên theo BLHS Thuỵ Điển bao gồm:

1. Thành viên của một ban giám đốc, một ban điều hành, một ban hoặc một ủy ban hoặc một cơ quan khác thuộc Nhà nước, hoặc thuộc thành phố, hội đồng của vùng, hiệp hội của chính quyền địa phương;

2. Người thực hiện một nhiệm vụ được quy định bởi các văn bản pháp luật;

3. Thành viên của lực lượng vũ trang theo Luật (1986: 644) về vi phạm kỉ luật bởi thành viên của lực lượng vũ trang hoặc người khác thực hiện một trách nhiệm chính thức theo quy định của Luật này;

4. Người không được giao công việc hoặc một nhiệm vụ nói trên nhưng đang thực hiện quyền lực công;

5. Người, ngoài những trường hợp quy định từ điểm 1 đến điểm 4, được tín nhiệm giao cho nhiệm vụ (a) giải quyết một vấn đề tài chính hoặc pháp lý của người khác, (b) tiến hành một điều tra mang tính khoa học, (c) tiến hành độc lập một nhiệm vụ đòi hỏi vốn kiến thức kĩ thuật cao, hoặc (d) tiến hành giám sát việc thực hiện các nhiệm vụ được nêu ở mục (a), (b) hoặc (c);

6. Bộ trưởng của một Chính phủ nước ngoài, thành viên của một cơ quan lập pháp nước ngoài hoặc thành viên của một thiết chế bất kì của nước ngoài có đặc điểm phù hợp với những đối tượng được nêu tại khoản 1;

7. Người tuy không nắm giữ cương vị hoặc thực hiện nhiệm vụ nêu trên nhưng đang thực hiện quyền lực công tại một nước ngoài hoặc thực hiện một nhiệm vụ cho nước ngoài;

8. Thành viên của cơ quan giám sát, cơ quan điều hành hoặc cơ quan nghị viện của một tổ chức quốc tế công hoặc một tổ chức liên chính phủ trong đó Thụy Điển là thành viên;

9. Thẩm phán hoặc nhân viên của một Toà án quốc tế mà thẩm quyền xét xử của nó được Thụy Điển công nhận.

Như vậy, Điều luật đã nêu một loạt đối tượng cụ thể có thể trở thành chủ thể của Tội nhận hối lộ, bao gồm: Nhân viên, một số nhóm công chức quốc gia, thành viên của lực lượng vũ trang, một số người được giao trách nhiệm do tín nhiệm, một số nhóm công chức của nước ngoài và công chức của một số tổ chức quốc tế công.

1.2. Trong pháp luật hình sự Hoa Kỳ

Năm 1977, Quốc hội Hoa Kỳ đã ban hành Luật chống hối lộ công chức nước ngoài (FCPA) để hạn chế tình trạng này.

Năm 1994, Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD)3 bắt đầu phối hợp với Hoa Kỳ trong việc chống hối lộ công chức nước ngoài trong các giao dịch quốc tế. Ngày 17/12/1997, 34 quốc gia, bao gồm 29 thành viên OECD và 05 quốc gia không phải là thành viên đã ký Công ước về việc chống hối lộ các công chức nước ngoài trong giao dịch kinh doanh quốc tế, nhằm thực hiện một môi trường kinh doanh bình đẳng, lành mạnh giữa các chủ thể trong giao dịch kinh doanh quốc tế, nhất là khi tình hình toàn cầu hóa kinh tế đang chi phối hoạt động kinh tế của tất cả các nước và vai trò của các doanh nghiệp OECD đang tăng lên ở nước ngoài.

Công ước của OECD đã cung cấp thêm một cách tiếp cận về tham nhũng. Khoản 1 Điều 1 Công ước quy định những nội dung về hối lộ công chức nước ngoài như sau: “… đề nghị, hứa hoặc tặng bất cứ khoản tiền hay lợi thế bất chính khác một cách trực tiếp hay qua trung gian cho công chức nước ngoài hoặc người thứ ba để công chức đó làm hay không làm một việc liên quan đến việc thực hiện công vụ, nhằm giành được hay duy trì việc kinh doanh hay lợi thế không đúng đắn khác trong việc tiến hành hoạt động kinh doanh quốc tế”.

Điểm đáng chú ý trong Công ước này là chỉ xác định hành vi tham nhũng “chủ động” - tức hành vi ở phía người đưa hối lộ - bất kể là động cơ và lợi ích của hành vi đó ra sao, đã thực hiện đến đâu.

Như vậy, với Luật chống hối lộ công chức nước ngoài (FCPA), Công ước của OECD về việc chống hối lộ các công chức nước ngoài trong giao dịch kinh doanh quốc tế “đã đặt hối lộ xuyên quốc gia và nội địa vào vị trí như nhau”. Chúng thể hiện nhận thức chung của cộng đồng quốc tế về tham nhũng và nguy cơ tham nhũng, cũng như quyết tâm chung và thống nhất hành động chống tham nhũng trên phạm vi toàn cầu.

Nhìn chung, theo luật pháp và thực tiễn ở Hoa Kỳ thì hối lộ, cấp hoặc nhận lợi ích vi phạm quyền lực được giao, là bất hợp pháp trên khắp Hoa Kỳ. Chính quyền liên bang và tiểu bang chia sẻ quyền thực thi đối với hối lộ. Luật pháp liên bang thường hình sự hóa hành vi hối lộ của các quan chức trong nước cũng như nước ngoài; cấm bất kỳ người nào “xúi giục quan chức nước ngoài đó sử dụng ảnh hưởng của mình với Chính phủ nước ngoài hoặc cơ quan của họ để ảnh hưởng hoặc tác động đến bất kỳ hành động hoặc quyết định nào của Chính phủ hoặc cơ quan đó”.

1.3. Trong pháp luật hình sự Nhật Bản

Những đạo luật chủ yếu về chống tham nhũng ở Nhật Bản gồm BLHS và Luật phòng ngừa cạnh tranh không lành mạnh năm 1993 (UCPA). Nhật Bản được đánh giá là quốc gia có khung pháp lý mạnh mẽ và hiệu quả. Bộ luật Hình sự Nhật Bản được áp dụng đối với các tội phạm thuộc lĩnh vực công, nghiêm cấm việc hối lộ chủ động hoặc thụ động các công chức, bao gồm các khoản thanh toán thuận lợi. Đạo luật về phòng, chống cạnh tranh không lành mạnh đã hình sự hóa hành vi hối lộ công chức và doanh nghiệp nước ngoài cũng như những cá nhân có trách nhiệm. Nhật Bản không có luật về hối lộ trong khu vực tư, nhưng pháp luật đặc biệt được áp dụng khi doanh nghiệp tư nhân có mối liên hệ chặt chẽ với lợi ích công. Luật doanh nghiệp được áp dụng đối với khu vực tư và quy định hình phạt đối với hành vi hối lộ chủ động hoặc thụ động của giám đốc hoặc người có vị trí tương tự của các công ty chứng khoán. Đạo luật về đạo đức chỉ áp dụng đối với cá nhân, có giá trị tham khảo về quà tặng và yêu cầu các công chức trung, cao cấp phải báo cáo về những quà tặng có giá trị vượt quá 5.000 Yên Nhật. Hình phạt cao nhất là 05 năm tù hoặc phạt tiền 300 ngàn Yên và có thể lên đến 20 năm đối với công chức đòi hối lộ.

Nhật Bản là một nước thành viên tham gia Công ước của OECD về chống hối lộ công chức nước ngoài trong các giao dịch kinh doanh quốc tế và đã thực hiện các biện pháp bao gồm cả việc áp dụng xử lý hình sự đối với việc hối lộ của công chức nước ngoài. Mặc dù có những nỗ lực trong công tác phòng, chống tham nhũng, nhưng hệ thống pháp luật của Nhật Bản hiện vẫn còn nhận được những khuyến nghị sửa đổi của OECD. Năm 2016, OECD khuyến nghị Nhật Bản bổ sung chế tài tịch thu toàn bộ số tiền thu được từ việc hối lộ công chức nước ngoài; nhắc lại sự cần thiết sửa đổi Luật chống tội phạm có tổ chức của Nhật Bản để ngăn ngừa, nghiêm cấm doanh nghiệp và công dân có dấu hiệu thực hiện hành vi hối lộ công chức nước ngoài, kể cả rửa tiền. Năm 2017, Nhật Bản đã sửa đổi Đạo luật trừng phạt tội phạm có tổ chức và kiểm soát các thủ tục tố tụng tội phạm bằng cách bổ sung chế tài cấm âm mưu của các nhóm (từ hai người trở lên) thực hiện hành vi đưa và nhận hối lộ. Việc sửa đổi Luật này nhằm tạo cơ sở để Nhật Bản phê chuẩn Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Nhật Bản xem đây như là một đạo luật chống khủng bố và lập luận rằng đạo luật này sẽ là cơ sở pháp lý để chống lại các tổ chức tội phạm và khủng bố liên quan đến tham nhũng. 

2. Một số khuyến nghị cho Việt Nam

Xuất phát từ thực tiễn và theo yêu cầu của Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng (UNCAC), BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS năm 2015) đã hình sự hóa hành vi hối lộ công chức nước ngoài, thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng một cách toàn diện và hiệu quả hơn; xây dựng môi trường quản trị công và kinh doanh lành mạnh, thúc đẩy hợp tác quốc tế trong phòng, chống tham nhũng. Cụ thể, khoản 6 Điều 364 BLHS năm 2015 quy định: “Người nào đưa hoặc sẽ đưa hối lộ cho công chức nước ngoài, công chức của tổ chức quốc tế công, người có chức vụ trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước cũng bị xử lý theo quy định tại Điều này”. Đồng thời, BLHS năm 2015 cũng chính thức ghi nhận trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại, song phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại lại không bao gồm Tội đưa hối lộ. Ngoài ra, nhận thức về tội phạm hối lộ công chức nước ngoài của cán bộ thực thi pháp luật còn hạn chế nên khả năng thực thi khó khăn. Pháp luật hiện hành của Việt Nam cũng chưa điều chỉnh các nội dung liên quan đến thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử lý trong nước các yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự như: Vấn đề phong tỏa, hạn chế chuyển nhượng tài sản hay tịch thu tài sản theo lệnh của Tòa án nước ngoài tại Việt Nam; việc dẫn độ một người để chuyển giao cho nước ngoài… Để bảo đảm tính đồng bộ của cơ chế pháp lý, các nhà làm luật cần nghiên cứu và đề xuất sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật có liên quan đến đấu tranh, phòng, chống các tội phạm tham nhũng, chức vụ như sửa đổi, bổ sung Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018 theo hướng điều chỉnh các hành vi đưa hối lộ, trong đó có đưa hối lộ cho công chức nước ngoài.

Đối với quy định của BLHS hiện hành, trước mắt, liên ngành tư pháp trung ương cần ban hành văn bản hướng dẫn thi hành các tội về hối lộ. Theo đó, “mục đích của hành vi đưa hối lộ cho công chức nước ngoài được hiểu giống như hành vi đưa hối lộ cho người có chức vụ, quyền hạn của Việt Nam”…

Nhằm bảo đảm nhận thức và áp dụng thống nhất pháp luật giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, cần tăng cường nhận thức về tội phạm đưa hối lộ cho công chức nước ngoài cho cán bộ thực thi pháp luật; củng cố và hoàn thiện cơ chế hợp tác quốc tế trong phát hiện, xử lý hình sự hành vi đưa hối lộ cho công chức nước ngoài; đưa ra giải pháp hoàn thiện khung pháp lý đối với tội phạm tham nhũng trong khu vực tư trong điều kiện hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.

Thực tiễn đấu tranh, phòng chống tội phạm về tham nhũng ở nước ta trong những năm vừa qua cho thấy, pháp luật hình sự Việt Nam chưa làm rõ nội hàm khái niệm công chức nước ngoài và công chức của tổ chức quốc tế công; phạm vi lợi ích mà người phạm tội hướng tới khi thực hiện hành vi hối lộ; mục đích của hành vi đưa hối lộ... Quan trọng hơn cả, Việt Nam đã chính thức ghi nhận trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trong BLHS năm 2015, nhưng phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại lại không bao gồm Tội đưa hối lộ. Như vậy, pháp nhân thương mại đưa hối lộ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo BLHS Việt Nam. Đây được xem là rào cản chính và khác biệt căn bản so với luật hình sự của các nước khác, sẽ trở thành một khó khăn cho Việt Nam trong hợp tác quốc tế đấu tranh chống hối lộ công chức nước ngoài, không đảm bảo cơ chế hợp tác để xử lý pháp nhân phạm tội một cách công bằng, bình đẳng.

TS. Đinh Xuân Nam - TS. Nguyễn Thị Thùy Dung

Theo Tạp chí Kiểm sát in số 01/2024