Hoàn thiện khung pháp luật về hòa giải thương mại của Việt Nam đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế
Ngày đăng : 14:26, 29/08/2024
Thời gian gần đây, xu hướng lựa chọn phương thức hòa giải thương mại (HGTM) để giải quyết tranh chấp của các bên liên quan ngày càng được ưa chuộng tại Việt Nam; minh chứng qua một số kết quả báo cáo tiêu biểu của Trung tâm hòa giải Việt Nam (VMC) như: i) Trong năm 2020, VMC đã tiếp nhận tổng cộng 10 vụ việc hòa giải, nâng tổng số vụ tiếp nhận giai đoạn 2018 - 2020 lên 14 vụ, trong đó số vụ tranh chấp trong nước có 12 vụ (chiếm hơn 85%) và tranh chấp có yếu tố nước ngoài là 02 vụ (chiếm gần 15%); có 05 vụ tranh chấp hòa giải thành công và các bên đều tự nguyện thi hành văn bản kết quả hòa giải thành (đạt 100%). ii) Trong năm 2021, VMC tiếp nhận tổng cộng 10 vụ việc hòa giải, nâng tổng số vụ tiếp nhận giai đoạn 2018 - 2021 lên 24 vụ, trong đó, số vụ tranh chấp trong nước là 12 vụ (chiếm 50%) và tranh chấp có yếu tố nước ngoài là 12 vụ (chiếm 50%); có 10 vụ tranh chấp hòa giải thành công và 100% các bên tự nguyện thi hành văn bản về kết quả hòa giải thành. iii) Trong năm 2022, VMC tiếp nhận tổng cộng 12 vụ việc hòa giải, nâng tổng số vụ tiếp nhận giai đoạn 2018 - 2021 lên 36 vụ, trong đó, số vụ tranh chấp trong nước là 20 vụ (chiếm 56%) và tranh chấp có yếu tố nước ngoài là 16 vụ (chiếm 44%); các vụ tranh chấp hòa giải thành được các bên 100% tự nguyện thi hành theo văn bản về kết quả hòa giải thành.
Mặc dù số lượng vụ việc được tiếp nhận hòa giải và tỉ lệ hòa giải thành công còn khiêm tốn, song cho thấy phương thức HGTM đã có những bước chuyển biến đáng ghi nhận. Có thể thấy, số lượng vụ việc tranh chấp được giải quyết bằng phương thức HGTM có xu hướng gia tăng hàng năm tại VMC (trung bình tăng mỗi năm 10 vụ việc trong giai đoạn từ năm 2020 - 2022), trong đó, số vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài chiếm tỉ lệ ngày càng cao.
Thực tế này phản ánh đúng nhu cầu, sự quan tâm của các bên tranh chấp đối với phương thức HGTM và khiến phương thức HGTM ở Việt Nam dần trở thành một xu thế mới. Trên góc độ quốc tế, theo Báo cáo khảo sát của Học viện Giải quyết tranh chấp Quốc tế Singapore (SIDRA), giai đoạn từ năm 2020 - 2022 cho thấy những lý do HGTM ngày càng được ưu tiên lựa chọn để giải quyết tranh chấp: Hầu hết các bên tham gia nhận thấy rằng HGTM là một cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả giúp họ duy trì các mối quan hệ kinh doanh (94%) và bảo mật (89%); HGTM có khả năng duy trì quan hệ kinh doanh (78%), công bằng (78%) và Hòa giải viên được lựa chọn có kinh nghiệm giải quyết tranh chấp (94%), đạo đức tốt (94%), kiến thức về ngành/vấn đề cụ thể (89%), khả năng sử dụng nhiều ngôn ngữ (89%) và sự quen thuộc về văn hóa (89%).
Lý do HGTM đang trở thành xu thế mới trong công tác giải quyết tranh chấp không chỉ trên thế giới mà còn ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, bởi nó mang đến cho các bên tranh chấp nhiều lợi ích như: Tính bảo mật cao, tính linh hoạt, có khả năng duy trì mối quan hệ hợp tác kinh doanh giữa các bên tranh chấp, giữ được hình ảnh, uy tín của các bên, chi phí thấp hơn so với phương thức trọng tài, tòa án; nếu các bên không giải quyết được tranh chấp thì có thể yêu cầu Tòa án hay Trọng tài giải quyết mà không bị mất quyền yêu cầu; Hòa giải viên có tính độc lập, không thiên vị.
1. Hòa giải thương mại từ góc độ pháp luật quốc tế
Trên phương diện pháp luật quốc tế, HGTM được quy định tương đối toàn diện trong một số công ước quốc tế; có thể kể đến như: Quy tắc hòa giải năm 1980 của Ủy ban Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế (United Nations Commission on International Trade Law - UNCITRAL). Quy tắc này gồm 20 điều với những nội dung trọng tâm như điều kiện, phạm vi áp dụng. Điều 1 Quy tắc nêu rõ: “Quy tắc này áp dụng cho việc hòa giải tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan tới quan hệ pháp lý hoặc hợp đồng khi các bên mong muốn một giải pháp hòa giải cho tranh chấp của mình đồng ý rằng Quy tắc hòa giải của UNCITRAL sẽ được áp dụng”; Quy tắc cũng quy định các vấn đề liên quan đến trình tự, thủ tục hòa giải (các điều 2, 3, 5, 13, 15), vai trò của Hòa giải viên (các điều 7, 19), các điều khoản về chi phí (các điều 17, 18), bảo mật (Điều 14), điều khoản hòa giải mẫu để các bên tranh chấp tham chiếu.
Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động thương mại quốc tế và quá trình hội nhập đặt ra vấn đề phải xây dựng một khung pháp lý đồng bộ giữa các quốc gia về hòa giải, đây là lý do UNCITRAL ban hành bộ Luật mẫu về hòa giải năm 2002. Nội dung bộ Luật mẫu về hòa giải năm 2002 của UNCITRAL cơ bản được xây dựng dựa trên sự kế thừa Quy tắc hòa giải năm 1980, song đã lần đầu tiên đề cập đến một khái niệm thống nhất về hòa giải tại khoản 3 Điều 1: “Hòa giải là một thủ tục được gọi bằng cụm từ hòa giải, trung gian hay một cụm từ khác có nghĩa tương đương, trong đó các bên yêu cầu một bên thứ ba (Hòa giải viên) hỗ trợ mình đạt được thỏa thuận giải quyết tranh chấp liên quan tới quan hệ hợp đồng hay mối quan hệ pháp lý khác”. Qua đó cho thấy, phương thức HGTM đã được UNCITRAL công nhận và quy định rõ ràng trong các văn kiện của mình.
Ngoài ra, sau nhiều vòng đàm phán, thảo luận của 85 quốc gia thành viên Liên hợp quốc và 35 tổ chức phi chính phủ, ngày 07/8/2019, Công ước Liên hợp quốc về thỏa thuận giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải đã được 53 quốc gia ký kết tại Singapore (gọi tắt là Công ước Singapore). Công ước này gồm 16 điều với mục đích thống nhất khuôn khổ pháp lý về thỏa thuận hòa giải liên quan đến hoạt động thương mại quốc tế; công nhận giá trị của hòa giải đối với thương mại quốc tế như một phương thức giải quyết tranh chấp thương mại, trong đó các bên tranh chấp yêu cầu bên thứ ba hỗ trợ họ nỗ lực giải quyết tranh chấp một cách thân thiện. Trên cơ sở đó, khoản 3 Điều 2 Công ước Singapore định nghĩa: “Hòa giải là một thủ tục, bất kể tên gọi được sử dụng hoặc căn cứ mà thủ tục này được thực hiện, nhờ đó các bên nỗ lực giải quyết tranh chấp một cách thân thiện với sự hỗ trợ của bên thứ ba (Hòa giải viên) không có thẩm quyền áp đặt giải pháp cho các bên tranh chấp”.
Có thể khẳng định, Công ước Singapore ra đời là một thành công lớn đánh dấu những nỗ lực của cộng đồng quốc tế trong việc xây dựng khung pháp lý về HGTM trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hiện nay. Tương tự, HGTM cũng được quy định rất chặt chẽ trong hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới. Tiêu biểu như Luật hòa giải Singapore sửa đổi năm 2021: “Hòa giải là quá trình gồm một hay nhiều phiên họp, trong đó một hoặc nhiều Hòa giải viên hỗ trợ các bên trong tranh chấp thực hiện toàn bộ hoặc bất kỳ hoạt động nào sau đây để hỗ trợ giải quyết toàn bộ hoặc một phần tranh chấp…” (Điều 3); Luật thống nhất về hòa giải của Hoa Kỳ trên cơ sở Luật mẫu về hòa giải năm 2002 của UNCITRAL được áp dụng cho nhiều bang; Chỉ thị số 2008/52/EC năm 2007 của Liên minh Châu Âu về hòa giải trong lĩnh vực dân sự và thương mại: “Hòa giải là quá trình hai hoặc nhiều bên tranh chấp tự nguyện nỗ lực đạt được thỏa thuận giải quyết tranh chấp với sự hỗ trợ của Hòa giải viên” (Điều 3a).
Như vậy, phương thức HGTM không chỉ được quy định trong các công ước, mà còn trong hệ thống pháp luật quốc gia. Điểm chung của pháp luật quốc tế về HGTM là có sự đồng bộ cao về những vấn đề liên quan đến trình tự, thủ tục hòa giải, vai trò của Hòa giải viên trong quá trình giải quyết tranh chấp, các vấn đề về bảo mật, chi phí và quyền lợi của các bên; thống nhất cách hiểu chung về hòa giải (là một hoạt động giải quyết tranh chấp giữa các bên với sự tham gia của bên thứ ba là Hòa giải viên trung gian).
2. Pháp luật về hòa giải thương mại của Việt Nam
Sau hơn 05 năm thi hành, Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ngày 24/02/2017 của Chính phủ về HGTM (Nghị định số 22/2017) đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập:
Một là, quy định về phạm vi áp dụng HGTM tại Điều 2 Nghị định số 22/2017 còn tương đối hẹp. Theo đó, chỉ những tranh chấp gồm: “1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại. 2. Tranh chấp giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại. 3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng hòa giải thương mại” mới được áp dụng HGTM để giải quyết; khoản 1 Điều 3 Luật thương mại năm 2005 lại quy định: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Định nghĩa “hoạt động thương mại” của Việt Nam chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, dẫn đến phạm vi các tranh chấp được sử dụng cơ chế HGTM bị hạn chế, hầu như chỉ áp dụng với các tranh chấp thương mại trong nước mà chưa điều chỉnh được các tranh chấp thương mại quốc tế.
Hai là, chưa quy định rõ về thỏa thuận hòa giải. Theo Nghị định số 22/2017 thì: “Thỏa thuận hòa giải là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh bằng phương thức hòa giải” (khoản 2 Điều 3); thỏa thuận hòa giải có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản hòa giải trong hợp đồng hoặc thỏa thuận riêng nhưng phải được xác lập bằng văn bản (Điều 11). Như vậy, thỏa thuận hòa giải có thể được xem là một giao dịch dân sự giữa các bên tranh chấp; nguyên tắc thỏa thuận hòa giải phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện có hiệu lực của một giao dịch dân sự theo Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Tuy nhiên, Nghị định số 22/2017 chưa có quy định về trường hợp thỏa thuận hòa giải vô hiệu, nên gây khó khăn cho các bên trong quá trình áp dụng. Hơn nữa, HGTM chỉ được áp dụng khi các bên tranh chấp có thỏa thuận hòa giải; song trên thực tiễn, có trường hợp các bên tranh chấp không những thỏa thuận hòa giải, mà còn thỏa thuận trọng tài hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết. Điều này gây ra xung đột về thẩm quyền giải quyết. Nghị định số 22/2017 vẫn chưa quy định rõ về cách xử lý khi xảy ra xung đột giữa việc sử dụng HGTM với các phương thức giải quyết tranh chấp khác. Việc các bên thỏa thuận hòa giải có ảnh hưởng đến quyền yêu cầu cơ quan tài phán giải quyết hay không?
Ba là, Nghị định số 22/2017 chưa thể hiện được mối quan hệ giữa HGTM với các phương thức giải quyết tranh chấp khác, không quy định rõ vai trò của Trọng tài, Tòa án đối với HGTM. Hệ thống pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp quy định sự hỗ trợ lẫn nhau giữa phương thức giải quyết tranh chấp tòa án và trọng tài như: Thẩm quyền hỗ trợ của Tòa án đối với Trọng tài thương mại trong công tác giải quyết tranh chấp (trường hợp các bên tranh chấp không có thỏa thuận lựa chọn Trọng tài viên để thành lập Hội đồng trọng tài vụ việc thì Tòa án có thể chỉ định; Trọng tài yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, triệu tập người làm chứng...).
Nhìn chung, sự hỗ trợ của Tòa án đối với Trọng tài là phù hợp với thực tiễn và tăng tính hiệu quả khi giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, Nghị định số 22/2017 chưa quy định về sự hỗ trợ lẫn nhau giữa phương thức trọng tài, tòa án và HGTM.
3. Kiến nghị hoàn thiện khung pháp luật Việt Nam
Thứ nhất, cần xây dựng Luật hòa giải thương mại và tiến tới gia nhập Công ước Singapore.
Để đảm bảo tính ổn định, lâu dài của khung pháp luật về HGTM tại Việt Nam, cần xây dựng Luật hòa giải thương mại trên cơ sở Nghị định số 22/2017, bao gồm những nội dung theo hướng tương thích với mô hình Luật mẫu về hòa giải của UNCITRAL và Công ước Singapore. Việc ban hành Luật hòa giải thương mại là hết sức cần thiết; không chỉ giúp nâng cao khả năng cạnh tranh, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, mà còn giúp pháp luật về HGTM của Việt Nam tương thích với các quốc gia phát triển trên thế giới, mở ra môi trường đầu tư đa dạng, lành mạnh hơn cho các thương nhân. Bên cạnh đó, việc xây dựng Luật hòa giải thương mại sẽ giúp Việt Nam thuận lợi trong việc gia nhập Công ước Singapore; bởi khi gia nhập Công ước Singapore thì kết quả hòa giải tranh chấp của các Hòa giải viên và trung tâm hòa giải tại Việt Nam sẽ được công nhận và thi hành tại các quốc gia là thành viên của Công ước.
Thứ hai, cần hoàn thiện một số quy định của Nghị định số 22/2017.
- Mở rộng phạm vi áp dụng HGTM trong Nghị định số 22/2017. Hội nhập quốc tế khiến các tranh chấp phát sinh ngày càng nhiều, không chỉ trong lĩnh vực thương mại, mà còn trong đầu tư, xây dựng... Do đó, cần xem xét quy định một cách cởi mở hơn phạm vi áp dụng của HGTM nhằm khai thác tối đa tiềm năng của phương thức này.
- Bổ sung quy định rõ ràng, chính xác hơn về hiệu lực của thỏa thuận hòa giải, các trường hợp hòa giải vô hiệu và hướng dẫn các bên tranh chấp xử lý khi thỏa thuận hòa giải không đảm bảo điều kiện có hiệu lực; bổ sung quy định nhằm phân biệt trường hợp vừa có thỏa thuận hòa giải, vừa có thỏa thuận trọng tài hoặc đơn khởi kiện tại Tòa án, nhằm tách bạch thẩm quyền giải quyết của các chủ thể có liên quan.
- Bổ sung quy định về cơ chế hỗ trợ của Tòa án, Trọng tài đối với phương thức HGTM trong quá trình giải quyết tranh chấp. Thực tế cho thấy, một số trung tâm HGTM là đơn vị trực thuộc trung tâm trọng tài; do đó, việc xây dựng cơ chế hỗ trợ giữa Trọng tài và Hòa giải viên trong quá trình giải quyết tranh chấp như: Hỗ trợ về việc lựa chọn Hòa giải viên, kỹ năng hòa giải, cơ sở, phương tiện phục vụ cho nhu cầu hòa giải... là khả thi. Bên cạnh đó, cần bổ sung vai trò hỗ trợ của Tòa án trong việc thi hành kết quả hòa giải thành trên cơ sở quy định của pháp luật tố tụng dân sự và tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020: “Khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài; Tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó”.
ThS. Đặng Thế Hùng