Rút kinh nghiệm từ vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất và hủy quyết định cá biệt”
Ngày đăng : 09:56, 26/03/2024
Nội dung vụ án, ngày 17/7/1995, gia đình bà Lê Thị H được UBND huyện T, tỉnh Q cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong đó có thửa 438, tờ bản đồ số 12, diện tích 504m2 loại đất lúa và ngày 13/7/2016 được Sở TN&MT tỉnh Q cấp đổi thành thửa 280, tờ bản đồ số 20, diện tích là 553,7m2 tại thôn BT, xã B, huyện T, tỉnh Q. Bà H khởi kiện yêu cầu ông M trả lại thửa đất số 438, tờ bản đồ số 12, diện tích 504m2 cho gia đình bà.
Theo ông M thì từ năm 1992, ông bốc thăm trúng thửa đất số 438 và canh tác thửa đất từ 1993 đến khi tranh chấp. Bà H cho rằng, bà được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng không biết là thửa nào và không sản xuất trên thửa đất đó, trong khi gia đình ông sử dụng từ trước đến nay và làm nghĩa vụ thuế. Vì vậy, ông không đồng ý yêu cầu khởi kiện. Ngoài ra, do UBND huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đất thửa đất số 438 cho bà H, trong khi ông là người sử dụng canh tác từ năm 1993 đến nay. Nên ông M phản tố đề nghị Tòa án tuyên huỷ một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đất đối với thửa đất số 438, tờ bản đồ số 12, diện, tích 504m2 đã được UBND huyện T cấp ngày 17/7/1995 và đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Q cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đất đối với thửa đất nói trên thành thửa đất số 280, tờ bản đồ số 20, diện tích 553,7m2 vào ngày 13/7/2016 cho hộ bà Lê Thị H.
Với nội dung khởi kiện của nguyên đơn và yêu cầu phản tố độc lập của bị đơn, Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định, tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị H về việc buộc ông Hồ Thanh M phải trả lại thửa đất số 280, tờ bản đồ số 20, diện tích 553,7m2 tại thôn BT, xã B, huyện T, tỉnh Q cho gia đình bà Lê Thị H và không chấp nhận yêu cầu của bị đơn ông Hồ Thanh M về việc hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đất do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Q cấp thửa đất số 280, tờ bản đồ số 20, diện tích 553,7m2 cho hộ bà Lê Thị H. Kiến nghị Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Q xử lý việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đất cho hộ bà Lê Thị H theo đúng quy định pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, nguyên đơn kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện; bị đơn kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu phản tố.
Tòa án cấp phúc thẩm đã quyết định, tuyên xử: Không chấp nhận kháng cáo của bà Lê Thị H; Chấp nhận kháng cáo của ông Hồ Thanh M, sửa bản án dân sự sơ thẩm của TAND tỉnh Q về phần yêu cầu phản tố của ông Hồ Thanh M, tuyên hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đất do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Q cấp cho hộ bà Lê Thị H.
Thông qua vụ án này, những vấn đề cần rút kinh nghiệm như sau: Quá trình giải quyết vụ án các đương sự đều thừa nhận thửa đất bà Lê Thị H tranh chấp là thửa đất số 438, tờ bản đồ số 12, diện tích 504m2 nay là thửa đất số 280, tờ bản đồ số 20, diện tích là 553,7m2 tọa lạc tại thôn BT, xã B, huyện T, tỉnh Q được UBND huyện T, tỉnh Q cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Võ Tấn K (chồng của bà Lê Thị H) vào ngày 17/7/1995 và được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Q cấp đổi cho hộ bà Lê Thị H vào ngày 13/7/2016 nhưng trên thực tế do hộ ông Hồ Thanh M canh tác, sử dụng.
Tại Biên bản hòa giải ngày 26/3/2020, do UBND xã B lập, bà Lê Thị H thừa nhận: Hộ tôi làm từ năm 1993 được 8 năm thì Tổ lấy lại chia cho ông M sản xuất, bản thân tôi không biết có bìa đỏ, sau này đo đạc đổi giấy lại tôi mới biết diện tích đó cấp giấy cho tôi nên tôi yêu cầu ông M trả, nhưng ông M không trả lại.
Theo Biên bản lấy lời khai ngày 11/3/2022 bà Lê Thị H cho biết thửa đất đang tranh chấp do gia đình bà bốc thăm từ năm 1992, 1993, đến năm 1997 thì Tổ (đội) nói là ruộng hoang nên lấy lại thửa đất này và chia cho ông M, gia đình bà H cũng được chia thửa đất khác có diện tích 175m².
Báo cáo số 169/BC-UBND ngày 17/11/2022 của UBND xã B, huyện T, tỉnh Q liên quan thửa đất tranh chấp có nội dung: Nguồn gốc thửa đất 438, tờ bản đồ số 12, diện tích 504m2 tại thôn BT do ông Hồ Thanh M đang sử dụng ổn định từ năm 1993 đến nay. Khi thực hiện việc cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đất theo cơ sở dữ liệu tại xã B thì hộ ông Hồ Thanh M đi kê khai đăng ký đề nghị cấp giấy.
Công văn số 253/UBND-TNMT ngày 21/02/2023 của UBND huyện T, tỉnh Q thể hiện: Thửa đất số 438, tờ bản đồ số 12, diện tích 504m2; mục đích sử dụng: Đất 1 lúa, người được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đất so với người thực tế đang sử dụng thửa đất là không đúng. Nguyên nhân là do sai sót trong quá trình xác định đối tượng tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đất không đúng hiện trạng thực tế về người sử dụng. Khi thực hiện thủ tục cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đất theo dự án xây dựng hệ thống hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu quản lý đất đai xã B đã không phát hiện sai sót, tiếp tục được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Q cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đất đối với thửa đất nói trên thành thửa đất số 280, tờ bản đồ số 20, diện tích 553,7m2; mục đích sử dụng: đất trồng lúa nước còn lại cho hộ bà Lê Thị H vào ngày 13/7/2016, địa chỉ thửa đất tại thôn BT, xã B, huyện T là không đúng đối tượng sử dụng đất.
Như vậy, mặc dù hộ bà Lê Thị H được UBND huyện T, tỉnh Q cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đất và Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Q cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đất nhưng hộ bà H không sử dụng đất, trong khi đó hộ ông Hồ Thanh M đã thực tế canh tác sử dụng từ năm 1993 cho đến nay và chính quyền địa phương là UBND xã B, UBND huyện T, tỉnh Q đều thừa nhận việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà Lê Thị H là sai sót.
Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị H về việc đòi ông Hồ Thanh M trả lại thửa đất tranh chấp là đúng pháp luật nhưng lại không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Hồ Thanh M về việc hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đất của hộ bà Lê Thị H mà lại kiến nghị Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Q xem xét xử lý đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đất của hộ bà H là giải quyết không triệt để vụ án và chưa đúng quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Vì vậy, Tòa án cấp phúc thẩm đã sửa bản án dân sự sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn, hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đất mà Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Q đã cấp cho nguyên đơn theo đúng qui định của pháp luật.
Khoản 1, khoản 2 Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định:
1. Khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết.
2. Quyết định cá biệt quy định tại khoản 1 Điều này là quyết định đã được ban hành về một vấn đề cụ thể và được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. Trường hợp vụ việc dân sự có liên quan đến quyết định này thì phải được Tòa án xem xét trong cùng một vụ việc dân sự đó.