Giữ vững và tăng cường nguyên tắc Đảng lãnh đạo nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Ngày đăng : 13:51, 14/03/2024
Nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng, có tính thời sự cấp bách trong điều kiện đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Đây là cơ sở để nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng; củng cố và phát huy hiệu quả cơ chế vận hành quyền lực “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”; là vũ khí lý luận sắc bén phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, phản động hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
1. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam là hai thành tố chủ đạo, đóng vai trò “xương sống” trong hệ thống chính trị ở Việt Nam và có quan hệ mật thiết với nhau. Với tư cách là thành tố tổ chức và định hướng hoạt động cho toàn bộ hệ thống chính trị, Đảng phải không ngừng củng cố và hoàn thiện nguyên tắc lãnh đạo đối với Nhà nước, trọng tâm là hoàn thiện phương thức lãnh đạo đối với Nhà nước, bảo đảm Nhà nước thực hiện đầy đủ, có hiệu quả, tránh mâu thuẫn, xung đột “các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp dưới sự giám sát của Nhân dân”, bảo đảm hoàn thiện, vận hành có hiệu quả cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”; đồng thời, khắc phục triệt để những hạn chế, yếu kém nảy sinh, nhất là hai khuynh hướng: Buông lỏng lãnh đạo hoặc bao biện làm thay Nhà nước, áp đặt mệnh lệnh hành chính can thiệp vào các quyết định hành chính của Nhà nước, các quan hệ pháp luật. Bởi vì, bản chất của Nhà nước pháp quyền chính là “tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật”.
Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước đã được quy định rõ kể từ Hiến pháp năm 1980 và được kế thừa trong tất cả các bản Hiến pháp sau đó. Trong Hiến pháp năm 2013, nguyên tắc này được thể hiện tại Điều 4 với hai nội dung chủ yếu:
Thứ nhất, vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (bổ sung, phát triển năm 2011): “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội” và được hiến định tại khoản 1 Điều 4 Hiến pháp năm 2013: “Đảng Cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Nói cách khác, Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam, cụ thể là bộ máy nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam, không thể được lãnh đạo bởi một lực lượng nào khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam. Việc xác định Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước là một nét đặc thù trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam nói riêng và của bộ máy các nước XHCN nói chung. Trên thực tế, các nhà nước trên thế giới thường do các đảng chính trị lãnh đạo. Song, Hiến pháp các quốc gia thường không quy định một cách rõ ràng và đương nhiên một đảng chính trị nào có vai trò lãnh đạo duy nhất.
Thứ hai, hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên phải trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật (khoản 3 Điều 4 Hiến pháp năm 2013). Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức rộng lớn với hơn 4 triệu đảng viên. Các tổ chức của Đảng được thành lập một cách rộng khắp từ trung ương đến địa phương. Nguyên tắc “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước” khẳng định rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam nắm vai trò lãnh đạo duy nhất đối với Nhà nước, có nghĩa là các tổ chức đảng lãnh đạo các cơ quan nhà nước tương ứng; song hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên phải trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật do Nhà nước đặt ra. Điều này là hoàn toàn đúng đắn, bởi pháp luật là quy tắc xử sự chung, thể hiện ý chí chung và có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả các chủ thể trong xã hội. Triệt để tuân thủ pháp luật là tinh thần cốt lõi của nguyên tắc pháp quyền XHCN và các tổ chức đảng, đảng viên không phải là ngoại lệ.
Như vậy, nguyên tắc “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước” xác lập một mối quan hệ hai chiều giữa Đảng và Nhà nước: Một mặt, Đảng là lực lượng lãnh đạo duy nhất đối với Nhà nước; mặt khác, Đảng hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật do Nhà nước đặt ra. Sự cân bằng giữa vai trò của Đảng và Nhà nước trong mối quan hệ này là một lý tưởng; song nó đặt ra vấn đề không đơn giản cho thực tiễn vận hành, bởi nó đòi hỏi phải thường xuyên củng cố và tăng cường phương thức lãnh đạo của Đảng.
2. Tiếp tục củng cố và tăng cường nguyên tắc Đảng lãnh đạo trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW) đã đề ra nhiệm vụ và giải pháp: “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, thống nhất của Đảng, phát huy trách nhiệm, tính chủ động, sáng tạo và hiệu lực, hiệu quả trong quản lý, điều hành của Nhà nước”. Đây vừa là yêu cầu, vừa là nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm nhằm tiếp tục củng cố và tăng cường nguyên tắc Đảng lãnh đạo Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. Do đó, cần thực hiện tốt những nội dung, biện pháp chủ yếu sau đây:
Một là, cần tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng.
Để việc ban hành nghị quyết bảo đảm tính hiệu quả, thực chất, khả thi, trước khi ban hành dự thảo nghị quyết, Đảng cần làm tốt việc chỉ đạo, tổ chức hướng dẫn, kiểm soát chặt chẽ quy trình ban hành nghị quyết, chương trình hành động; đổi mới công tác tham vấn, xin ý kiến góp ý của các chuyên gia, nhà khoa học, đội ngũ trí thức, các cơ quan, bộ, ban, ngành ở trung ương và địa phương; tổ chức lấy ý kiến Đảng đoàn Quốc hội, các bộ, ban, ngành, địa phương có liên quan; đổi mới chất lượng giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, thành viên Mặt trận Tổ quốc; tăng cường khảo sát, phân tích, nắm tình hình thực tiễn…, bảo đảm tính khoa học, toàn diện, thực tiễn và khả thi cao trước khi trình Ban Chấp hành Trung ương họp cho ý kiến và xem xét, quyết định.
Sau khi nghị quyết được ban hành, cần thực hiện lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện; chú trọng nâng cao chất lượng tuyên truyền, phổ biến, trong đó tập trung làm rõ những nội dung trọng tâm, những phát triển mới so với các nghị quyết có cùng nội dung và đối tượng lãnh đạo trước đó. Sau khi phổ biến, quán triệt nghị quyết, các cơ quan, tổ chức căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao để xây dựng đề án, chương trình hành động, kế hoạch công tác thực hiện; xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo các cơ quan trong việc tổ chức thực hiện nghị quyết; quy định rõ về nội dung, thời gian hoàn thành, lộ trình thực hiện.
Chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo việc thể chế hóa các nghị quyết của Đảng thành chính sách, luật pháp là phương thức lãnh đạo, cầm quyền cơ bản nhất của Đảng nhằm đưa đường lối, chính sách vào thực tiễn cuộc sống. Nếu lãnh đạo chính trị bằng đường lối, chủ trương, thì cầm quyền phải bằng chính sách, pháp luật để buộc tất cả các lực lượng xã hội phải tuân theo, các tổ chức đảng và đảng viên càng phải gương mẫu thực hiện. Thể chế hóa đường lối, nghị quyết của Đảng thành luật pháp, chính sách là phương thức cầm quyền thực hiện kết nối giữa Đảng lãnh đạo chính trị với Đảng cầm quyền bằng pháp luật. Mặt khác, nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc, của Ban Chấp hành Trung ương là biểu hiện tập trung trí tuệ và ý chí chính trị của toàn Đảng, đại biểu cho ý chí và nguyện vọng của Nhân dân và toàn dân tộc, nên phải được thể chế hóa thành pháp luật để tổ chức cho toàn dân thực hiện trên phạm vi toàn quốc.
Hai là, cần tăng cường lãnh đạo xây dựng tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Sức mạnh của Đảng được tạo nên trước hết từ sức mạnh của tổ chức, trong đó vấn đề gốc rễ, “then chốt của then chốt” là chất lượng đội ngũ cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Cán bộ là gốc của mọi công việc”. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về đổi mới mạnh mẽ, toàn diện công tác cán bộ trong nhiệm kỳ mới đã khẳng định: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”. Đặc biệt, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, cần tăng cường lãnh đạo xây dựng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, góp phần nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng, bảo đảm thực thi hiệu quả cơ chế vận hành quyền lực “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”. Do đó, cần thực hiện nghiêm túc, nhất quán nguyên tắc Đảng lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Đây vừa là định hướng, vừa là giải pháp cơ bản, nhằm cụ thể hóa, “chuẩn hóa”, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với tạo môi trường, cơ chế thúc đẩy đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, sáng tạo và bảo vệ cán bộ; phân công, phân cấp gắn với giao quyền, ràng buộc trách nhiệm; đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực và xử lý nghiêm những sai phạm trong công tác cán bộ; thường xuyên đổi mới công tác cán bộ phù hợp với tình hình thực tiễn, trên cơ sở tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới; thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của Nhân dân; đặt trong tổng thể của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, thu hút, trọng dụng nhân tài.
Xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trước hết là của các cấp ủy, tổ chức đảng, mà nòng cốt là các cơ quan tham mưu của Đảng, nhất là cơ quan tổ chức cán bộ. Do đó, cần phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và cơ quan truyền thông, báo chí trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ. Sức mạnh của Đảng thể hiện ở sự gắn bó máu thịt, mật thiết với Nhân dân; phải thực sự dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ; đồng thời, cần quan tâm xây dựng quy hoạch cán bộ, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ theo hướng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cơ bản, lâu dài, có tính đến nhu cầu và khả năng phát triển.
Ba là, cần nâng cao bản lĩnh chính trị, trí tuệ, vai trò nêu gương, tinh thần vì Nhân dân phục vụ của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt và người đứng đầu các cấp. Đây là những phẩm chất nhân cách cơ bản của mọi cán bộ, đảng viên, không chỉ đòi hỏi các cấp ủy, tổ chức đảng thường xuyên quan tâm, chăm lo, mà còn là tiêu chí tu dưỡng, rèn luyện của từng cán bộ, đảng viên. Trong đó, việc giáo dục, rèn luyện thông qua gương người tốt, việc tốt là một trong những cách thức thiết thực và hiệu quả nhất. Những tấm gương người tốt, việc tốt nói chung, trong mỗi cán bộ, đảng viên nói riêng không chỉ làm đẹp những giá trị truyền thống được hình thành, bồi đắp trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, mà còn trở thành những hạt giống tốt để xây dựng chế độ xã hội mới, là những điển hình mực thước trong rèn luyện, nêu gương đạo đức cách mạng để mọi người cùng phấn đấu, học tập.
Để phát huy hơn nữa vai trò nêu gương, nhất là đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cao, đòi hỏi các cấp ủy, tổ chức đảng cần quán triệt và cụ thể hóa Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25/10/2018 về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”. Kết quả nêu gương cần được đánh giá toàn diện, lượng hóa đầy đủ bằng hiệu quả công việc, uy tín của cán bộ, đảng viên trước quần chúng thông qua các hình thức đánh giá tín nhiệm, nhất là đối với người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, địa phương. Đồng thời, cần coi đây là một trong những tiêu chí quan trọng nhằm đánh giá, quy hoạch, sử dụng cán bộ. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, nhất là trong điều kiện những thiết chế về Nhà nước pháp quyền chưa đầy đủ, đạo đức công vụ, văn hóa công dân còn chưa cao.
Bốn là, cần tăng cường kiểm tra, giám sát việc cụ thể hóa, thể chế hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng.
Kiểm tra, giám sát vừa là phương thức lãnh đạo cơ bản, vừa là nguyên tắc tổ chức thực hành quyền lực chính trị của Đảng đối với Nhà nước và hệ thống chính trị. Trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, công tác kiểm tra, giám sát đòi hỏi phải được tiến hành đồng bộ, toàn diện từ khâu xây dựng nghị quyết lãnh đạo, thể chế hóa nghị quyết bằng các chính sách, pháp luật, đến huy động nguồn lực tổ chức thực hiện, kiểm điểm kết quả, hiệu quả thực thi chính sách, pháp luật… Nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải lấy Hiến pháp và pháp luật là tối thượng, coi xây dựng và thực thi đầy đủ, nghiêm minh pháp luật là nhiệm vụ trọng tâm, then chốt. Để công tác kiểm tra, giám sát việc cụ thể hóa, thể chế hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng đạt hiệu quả, đòi hỏi phải quan tâm xây dựng, kiện toàn tổ chức và đội ngũ cán bộ ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ. Cán bộ chuyên trách không chỉ nắm chắc nguyên tắc tổ chức đảng, mà còn phải tinh thông pháp luật, có kinh nghiệm thực tiễn phong phú, bảo đảm chấn chỉnh những hạn chế, yếu kém trong công tác thể chế hóa nghị quyết lãnh đạo của tổ chức đảng các cấp; chú trọng phát huy vai trò giám sát của Nhân dân theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Đồng thời, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội khác thực hiện tốt vai trò nòng cốt trong việc phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Như vậy, Đảng lãnh đạo Nhà nước pháp quyền XHCN là nguyên tắc hiến định, vừa thể hiện bản chất đặc trưng của chế độ XHCN, vừa là cơ sở bảo đảm cho cơ chế vận hành quyền lực ở Việt Nam diễn ra thông suốt, ổn định, thiết thực và hiệu quả. Hiệu quả của việc thực hiện nguyên tắc này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó cốt lõi nhất là năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng. Bởi vì, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN là nhiệm vụ mới, lâu dài, khó khăn, phức tạp, nên cần đặt ra yêu cầu tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo ngang tầm với nhiệm vụ nhằm thực hiện tốt những định hướng mà Đảng đã đề ra.