Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong tố tụng hình sự - một số kiến nghị hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

Ngày đăng : 14:13, 02/01/2024

(Kiemsat.vn) - Trong tố tụng hình sự, Viện kiểm sát và Tòa án tuy có chức năng, nhiệm vụ khác nhau nhưng đều có mục đích chung là đấu tranh phòng, chống tội phạm, xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

Trong tố tụng hình sự, Viện kiểm sát và Tòa án tuy có chức năng, nhiệm vụ khác nhau nhưng đều có mục đích chung là đấu tranh phòng, chống tội phạm, xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Do vậy, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Tòa án để giải quyết những vướng mắc, bất cập trong hoạt động tố tụng như chuyển giao hồ sơ, chứng cứ, tài liệu, chuẩn bị tốt các điều kiện cho tổ chức phiên tòa xét xử vụ án hình sự là rất cần thiết.

1. Một số vấn đề về mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong tố tụng hình sự

Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Tòa án cũng như mối quan hệ giữa chức năng công tố và chức năng xét xử trong tố tụng hình sự (TTHS), về bản chất không những là quan hệ phối hợp, mà còn là quan hệ chế ước. Sự tác động qua lại của hai chủ thể là Tòa án và Viện kiểm sát trong những điều kiện nhất định bảo đảm cho việc thực thi công vụ đúng đắn, tránh lạm quyền, cụ thể là hoạt động TTHS không xảy ra sai sót, vi phạm pháp luật, dẫn đến xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội và công dân. Mối quan hệ phối hợp, chế ước giữa Viện kiểm sát và Tòa án không bao biện lẫn nhau, không làm ảnh hưởng đến việc thực thi chức năng của mỗi ngành, mà vẫn bảo đảm tính độc lập, chỉ tuân theo pháp luật.

Trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, tuy Tòa án là cơ quan giữ vai trò chủ đạo, quyết định quá trình xét xử, nhưng Viện kiểm sát và Tòa án lại hoàn toàn độc lập với nhau. Mỗi cơ quan tự chịu trách nhiệm về công việc của mình. Tòa án không làm thay hay can thiệp vào công việc của Viện kiểm sát và ngược lại, Viện kiểm sát cũng không can thiệp vào công việc xét xử của Tòa án, mặc dù Viện kiểm sát có quyền và trách nhiệm kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án.

Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong TTHS biểu hiện trên hai bình diện cơ bản là phối hợp và chế ước sau đây:

Một là, quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát và Tòa án cơ bản là để giải quyết những vướng mắc, bất cập trong hoạt động TTHS nhằm mục tiêu chung là đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật. Đối với vụ án lớn, phức tạp, các cơ quan tố tụng họp liên ngành, nhưng không ảnh hưởng đến tính độc lập xét xử của Tòa án; “họp liên ngành để bàn giao tài liệu, thống nhất lộ trình, thời gian xét xử, chứ không phải là bàn về tội danh, mức phạt, mức án hay vấn đề gì cả”.

Quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong TTHS dựa trên các nguyên tắc cơ bản của TTHS, trong đó có nguyên tắc xác định sự thật của vụ án quy định tại Điều 15 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2021 (BLTTHS năm 2015) và trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm (Điều 5 BLTTHS năm 2015).

Hai là, quan hệ chế ước giữa hoạt động công tố và hoạt động xét xử thể hiện tập trung ở hai nội dung cơ bản của TTHS, đó là quy định về giới hạn xét xử và việc Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung. Cụ thể:

Về giới hạn xét xử: Có quan điểm cho rằng, giới hạn xét xử là để đảm bảo nguyên tắc có truy tố mới có xét xử, quyết định truy tố của Viện kiểm sát bằng bản cáo trạng là cơ sở pháp lý duy nhất để Tòa án quyết định đưa vụ án, bị cáo và những hành vi đã bị Viện kiểm sát truy tố ra xét xử.

Quan điểm khác cho rằng, giới hạn xét xử có điểm không hợp lý, bởi nó buộc Tòa án phải xét xử theo tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố là trái với nguyên tắc đã được hiến định: Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm và nguyên tắc xác định sự thật của vụ án - những nguyên tắc cơ bản của TTHS. Các nguyên tắc này cho phép Tòa án xét xử độc lập mà không bị lệ thuộc, chi phối theo ý kiến hoặc quyết định của bất kỳ cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân nào. Để quyết định áp dụng hình phạt, Tòa án không chỉ căn cứ vào tội danh trong bản cáo trạng đã truy tố mà tại phiên tòa, Tòa án phải trực tiếp xem xét, đánh giá toàn bộ các chứng cứ của vụ án để xác định đúng tội danh với hành vi phạm tội, nhưng Tòa án (Hội đồng xét xử) lại không được phép tuyên bị cáo tội danh nặng hơn tội danh trong cáo trạng. Điều đó đã dẫn đến trường hợp Hội đồng xét xử buộc phải kiến nghị trong bản án đề nghị cấp trên kháng nghị hủy bản án mà mình đã xét xử. Khắc phục những bất cập nêu trên, BLTTHS năm 2015 đã mở rộng giới hạn của việc xét xử: Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố (khoản 3 Điều 298). Quy định này là có cơ sở pháp lý và phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam, bởi các lý do sau:

- Hiến pháp năm 2013 quy định Tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp. Theo đó, chỉ có Tòa án mới có quyền tuyên bố một người có hay không phạm tội theo quy định của Bộ luật Hình sự. Tội danh mà Viện kiểm sát truy tố là một trong những căn cứ để Tòa án đưa vụ án ra xét xử. Khoản 3 Điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định Tòa án có quyền xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Luật sư trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Rõ ràng, để thực hiện chức năng xét xử, pháp luật đã trao cho Tòa án quyền độc lập trong mọi quyết định, do vậy, nếu quy định Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố là không phù hợp với nhiệm vụ của Tòa án và không đảm bảo nguyên tắc bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật.

- Để bảo đảm nguyên tắc tranh tụng, Điều 26 BLTTHS năm 2015 quy định bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và tranh tụng tại phiên tòa. Nếu chỉ quy định cho Tòa án xét xử những bị cáo và hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố thì trong nhiều trường hợp không phù hợp với kết quả xét hỏi, tranh tụng và những chứng cứ đã được kiểm tra, đánh giá tại phiên tòa.

- Để xét xử theo tội danh nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án cần bảo đảm thực hiện đúng các quy định của BLTTHS năm 2015 về thẩm quyền xét xử, thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm và bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo. Ngoài ra, pháp luật TTHS quy định cho Viện kiểm sát quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án. Do đó, nếu Viện kiểm sát cho rằng quyết định của Tòa án không khách quan, vi phạm về thủ tục tố tụng thì Viện kiểm sát có quyền kháng nghị. 

Tác giả cho rằng, giới hạn xét xử là phạm vi, mức độ nhất định mà Tòa án không thể hoặc không được vượt qua. Quy định giới hạn xét xử trong pháp luật TTHS nhằm đảm bảo tính xác định và định hướng cho hoạt động tố tụng của các chủ thể tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng ở giai đoạn xét xử, đặc biệt là xác định giới hạn cho Tòa án trong việc thực hiện quyền hạn; bảo đảm cho bị cáo và người bào chữa chủ động chuẩn bị chứng cứ, bào chữa, tranh tụng tại phiên tòa; thể hiện quan hệ chế ước của Viện kiểm sát đối với Tòa án. Truy tố là tiền đề của xét xử, không có truy tố thì không có xét xử, việc truy tố của Viện kiểm sát thể hiện tính quy định đối với việc xét xử. Xét xử chịu sự hạn chế của phạm vi truy tố, do đó, yêu cầu đặt ra là phải có tính thống nhất giữa đối tượng, phạm vi truy tố với đối tượng, phạm vi xét xử. Theo đó, Viện kiểm sát truy tố người nào, về tội gì thì Tòa án xét xử chủ thể và tội danh đó; truy tố phải có nội dung cụ thể để ràng buộc giới hạn xét xử, tránh tình trạng Tòa án lạm dụng quyền xét xử.

Về mặt lý luận và thực tiễn, việc xem xét quy định cho Tòa án xét xử khác tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố phải cân nhắc trên hai yếu tố: Có vượt ra khỏi phạm vi truy tố hay không và có ảnh hưởng đến quyền bào chữa của bị cáo hay không. Trong quá trình xét xử, việc xác định sự thật của vụ án có sự thay đổi lớn, đã vượt ra khỏi phạm vi truy tố thì Tòa án không được trực tiếp thay đổi tội danh, xét xử theo tội danh mới, mà phải đề nghị Viện kiểm sát thay đổi tội danh khác thì mới đưa ra phán quyết. Nếu trong phạm vi truy tố mà thấy có thể xét xử theo tội danh nhẹ hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố, không ảnh hưởng đến quyền bào chữa của bị cáo thì Tòa án có thể xét xử theo tội danh nhẹ hơn đó để nâng cao hiệu quả tố tụng; trường hợp có thể ảnh hưởng đến quyền bào chữa của bị cáo thì chỉ khi có ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, Tòa án mới được xét xử theo tội danh nhẹ hơn đó. Trong phạm vi sự thật khách quan của vụ án, nếu cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố thì Tòa án kiến nghị Viện kiểm sát truy tố về tội danh nặng hơn đó, nhưng phải bảo đảm quyền bào chữa cho bị cáo; trong trường hợp Viện kiểm sát không truy tố về tội danh nặng hơn thì Tòa án không thể xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn để bảo đảm giới hạn xét xử, quyền bào chữa và nguyên tắc có lợi cho bị cáo.

Hơn nữa, Tòa án không thể lấy quyền xét xử để can thiệp vào quyền công tố, không thể yêu cầu Viện kiểm sát rút quyết định truy tố, càng không thể bác bỏ quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Tuy nhiên, sau khi quyết định việc truy tố thì Viện kiểm sát có quyền rút, thay đổi, bổ sung quyết định truy tố cho phù hợp với bản chất của vụ án. Việc rút, thay đổi, bổ sung quyết định truy tố là bộ phận cấu thành hữu cơ của quyền công tố. Khi Viện kiểm sát rút quyết định truy tố thì đối tượng của quyền công tố không còn, buộc Tòa án phải chấm dứt việc xét xử (đình chỉ vụ án); khi Viện kiểm sát thay đổi, bổ sung quyết định truy tố thì Tòa án xét xử theo phạm vi thay đổi, bổ sung đó. Do đó, BLTTHS năm 2015 quy định tại phiên tòa, sau khi xét hỏi, nếu Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố thì Hội đồng xét xử vẫn phải xét xử toàn bộ vụ án là bất hợp lý, bởi bản chất của việc xét xử vụ án hình sự là Tòa án phân xử và đưa ra phán quyết khi tồn tại sự cáo buộc của bên này với bên kia.

Chức năng xét xử của Tòa án chỉ có mục đích là nhân danh công lý và Nhà nước kết luận một người có hay không phạm tội. Tuyên bố một người phạm tội nào đó phải dựa trên sự buộc tội và xét xử. Ngược lại, không có sự buộc tội thì tuyên bố của Tòa án sẽ không có ý nghĩa, bởi không ai buộc tội bị cáo thì đương nhiên họ không có tội và không cần xét xử. Đối với trường hợp sau khi xét hỏi, Viện kiểm sát rút toàn bộ truy tố thì đương nhiên phiên tòa không có luận tội và hệ quả là sẽ không có tranh luận giữa Viện kiểm sát và bị cáo, người bào chữa, người bị hại. Do đó, trong trường hợp này, Tòa án vẫn ra bản án là chưa phù hợp. Mặt khác, nếu Viện kiểm sát rút truy tố mà Tòa án vẫn xét xử và kết tội thì Tòa án đã làm thay chức năng buộc tội của Viện kiểm sát, ảnh hưởng đến tính khách quan, độc lập xét xử của Tòa án, xâm phạm đến quyền lợi của người bị buộc tội.

Quan hệ chế ước của Tòa án đối với Viện kiểm sát được thể hiện khi Viện kiểm sát là cơ quan có độc quyền truy tố người phạm tội, nhưng việc kết tội lại thuộc về Tòa án. Việc truy tố của Viện kiểm sát chính là quyền thỉnh cầu tư pháp, yêu cầu xét xử, kết tội bị cáo. Mục đích thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát là truy cứu trách nhiệm hình sự bị cáo, nhưng mục đích này có được thực hiện hay không là do kết quả của việc xét xử. Khi Tòa án mở phiên tòa, tuyên bị cáo có tội thì chủ trương công tố cuối cùng mới được thực hiện. Hoạt động công tố phải thông qua kiểm nghiệm của hoạt động xét xử, quyền công tố phải chịu sự quy định của quyền xét xử. Ngoài chức năng công tố, Viện kiểm sát còn có chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, đó là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, trong trường hợp có vi phạm thủ tục tố tụng tại phiên tòa thì Kiểm sát viên có quyền ý kiến trực tiếp; sau khi xét xử, Viện kiểm sát có quyền ban hành kiến nghị yêu cầu Tòa án khắc phục vi phạm pháp luật trong hoạt động xét xử, nếu kiến nghị của Viện kiểm sát không được Tòa án tiếp thu thì Viện kiểm sát có quyền kiến nghị Tòa án cấp trên và báo cáo Viện kiểm sát cấp trên để kiến nghị được đảm bảo thực hiện. Ngoài ra, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án và buộc Tòa án phải khởi động hoạt động xét xử vụ án theo trình tự phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm, tái thẩm. Quyền kháng nghị là bộ phận cấu thành hữu cơ của quyền công tố, cũng là biện pháp cụ thể của việc giám sát pháp luật. Quyền kháng nghị của Viện kiểm sát vừa bảo đảm lợi ích quốc gia, vừa bảo đảm quyền và lợi ích của những người tham gia tố tụng, nhất là quyền và lợi ích của bị cáo.

Về việc Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để yêu cầu điều tra bổ sung: Quy định này thể hiện quan hệ chế ước lẫn nhau giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong hoạt động TTHS, nhằm khắc phục những sai sót trong quá trình điều tra, truy tố, góp phần quan trọng cho Tòa án xét xử các vụ án hình sự một cách khách quan, toàn diện và chính xác. Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung rất quan trọng trong TTHS, thể hiện mối quan hệ chế ước và phối hợp giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong quan hệ tố tụng. Khi Tòa án trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát phải có trách nhiệm thực hiện. Tuy nhiên, không phải lúc nào những lý do mà Tòa án đưa ra để trả hồ sơ cho Viện kiểm sát điều tra bổ sung đều có thể thực hiện được. Trong trường hợp sau khi nhận hồ sơ để điều tra bổ sung từ Tòa án mà Viện kiểm sát nhận thấy những yêu cầu của Tòa án không có căn cứ hoặc không thể điều tra bổ sung được hoặc điều tra bổ sung không có kết quả và Viện kiểm sát chuyển trả lại hồ sơ cho Tòa án để xét xử thì Tòa án phải đưa vụ án ra xét xử. Đây là chế ước của Viện kiểm sát đối với Tòa án.

2. Một số đề xuất, kiến nghị

Trước những yêu cầu của việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách mạnh mẽ hệ thống các cơ quan tư pháp và các thủ tục tố tụng tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và hội nhập quốc tế, yêu cầu đối với việc xác định và tổ chức thực hiện quyền công tố không chỉ nhằm truy cứu người phạm tội, mà còn bảo đảm tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân; bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội không bị pháp luật tước bỏ phải được tôn trọng; phát hiện và xử lý kịp thời các vi phạm trong hoạt động tư pháp. Những yêu cầu trên đặt ra quan hệ giữa Viện kiểm sát và Tòa án, giữa quyền công tố và xét xử trong thời gian tới cần hoàn thiện một số nội dung sau:

Thứ nhất, về quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Về nguyên lý, bên nào thực hiện chức năng buộc tội, bên đó phải có trách nhiệm chứng minh, lập luận cho các lý lẽ của việc buộc tội. Theo đó, cần sửa đổi quy định của BLTTHS năm 2015 nhằm xác định đúng vị trí, vai trò của các chủ thể trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự nói chung và tại phiên tòa nói riêng. Khi thực hiện chức năng công tố tại phiên tòa, Viện kiểm sát có trách nhiệm chứng minh sự thật của vụ án, tranh luận dân chủ, đối đáp với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. Nếu thấy đủ căn cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội thì Kiểm sát viên luận tội bị cáo và đề nghị Tòa án áp dụng hình phạt; nếu thấy không có căn cứ buộc tội bị cáo, thì phải rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội.

Thứ hai, cần khẳng định rõ Tòa án chỉ thực hiện chức năng xét xử, không thực hiện những thẩm quyền thuộc chức năng buộc tội. Khi xét xử, Tòa án tìm hiểu, nhận thức sự thật vụ án chủ yếu thông qua việc nghe các bên hỏi, tranh luận, đối đáp, cần loại bỏ những nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án không thuộc chức năng xét xử mà thuộc chức năng buộc tội. Bởi lẽ, một số nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án đang thực hiện thuộc chức năng buộc tội đã ảnh hưởng đến nguyên tắc độc lập xét xử, ảnh hưởng đến tính khách quan của hoạt động xét xử, do đó cần được loại bỏ và trả lại cho chủ thể thực hiện chức năng công tố, buộc tội. Tòa án là cơ quan xét xử thì không thể tham gia vào việc điều tra, xác minh sự thật khách quan của vụ án. Vì vậy, nên bỏ quy định về việc Tòa án có trách nhiệm chứng minh tội phạm. Qua quá trình giải quyết vụ án, nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Tòa án yêu cầu Viện kiểm sát xem xét, khởi tố vụ án hình sự, thay vì trực tiếp ra quyết định khởi tố vụ án hình sự như quy định hiện nay.

Thứ ba, về giới hạn xét xử, cần xác định rõ Tòa án chỉ thực hiện việc xét xử trên cơ sở quyết định truy tố của Viện kiểm sát; khi Viện kiểm sát không truy tố hoặc rút quyết định truy tố bất kỳ thời điểm nào trước khi Tòa án ra bản án thì Tòa án không có quyền xét xử về hành vi đã bị rút truy tố đó. Do vậy, cần hoàn thiện các quy định liên quan đến việc rút quyết định truy tố của Kiểm sát viên theo hướng: Nếu tại phiên tòa, Kiểm sát viên rút một phần quyết định truy tố, thì Tòa án tiếp tục xét xử phần quyết định truy tố còn lại; nếu Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì vụ án phải được đình chỉ. Việc xem xét việc rút quyết định truy tố có đúng pháp luật hay không thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát cấp trên. Nếu Viện kiểm sát cấp trên thấy việc rút quyết định truy tố đó là trái pháp luật thì ra quyết định hủy quyết định rút quyết định truy tố của Viện kiểm sát cấp dưới và phục hồi vụ án theo thủ tục tố tụng chung. Giới hạn xét xử của Tòa án cần được thực hiện theo nguyên tắc buộc tội đến đâu thì xét xử đến đó, Tòa án xét xử bị cáo trong giới hạn tối đa mà Viện kiểm sát truy tố.

Thứ tư, cần quy định trách nhiệm xét hỏi để chứng minh tội phạm chủ yếu thuộc về Kiểm sát viên (xét hỏi để làm rõ chứng cứ buộc tội), trách nhiệm xét hỏi để bào chữa thuộc về người bào chữa. Theo đó, trình tự xét hỏi cần được quy định theo hướng: Sau thủ tục công bố cáo trạng, Kiểm sát viên hỏi trước, sau đó đến người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự; Hội đồng xét xử chỉ hỏi khi thật cần thiết để kiểm tra chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội nhằm nhận thức đúng sự thật, những vấn đề chưa rõ hoặc có mâu thuẫn (chỉ hỏi khi thấy còn những điểm chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn; không nên chủ động tham gia xét hỏi, mà chỉ điều khiển việc xét hỏi). Sửa đổi theo hướng này là phù hợp với vị trí, trách nhiệm của từng chủ thể tại phiên tòa và nguyên tắc tranh tụng trong xét xử đã được hiến định, tạo ra một cơ chế thực sự dân chủ và bình đẳng, tạo điều kiện để thực hiện có hiệu quả nhất quyền buộc tội và gỡ tội tại phiên tòa và mang tính đột phá, mở rộng tranh tụng, Tòa án giữ vai trò trọng tài vô tư, điều khiển phiên tòa, dẫn dắt tranh tụng để các bên bình đẳng với nhau trong việc tìm ra sự thật. Bên cạnh đó, cần bổ sung quy định Kiểm sát viên khi tham gia phiên tòa được quyền quyết định việc luận tội phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án và chịu trách nhiệm về quyết định của mình, mặc dù quyết định đó có thể có những điểm khác so với quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án trước khi mở phiên tòa. Quy định của BLTTHS năm 2015 và thực tiễn xét xử yêu cầu các chứng cứ, tài liệu trong vụ án hình sự phải được thẩm tra tại phiên tòa, vì vậy, nếu có căn cứ để thay đổi bản luận tội cho phù hợp với diễn biến tại phiên tòa thì Kiểm sát viên có quyền thay đổi.

TS. Hoàng Anh Tuyên (Tạp chí Kiểm sát số 16/2023)