VKSND tỉnh Yên Bái kháng nghị phúc thẩm vụ án Lăng Đức Hân cùng đồng phạm

Ngày đăng : 21:36, 19/11/2023

(Kiemsat.vn) - Ngày 17/11/2023, VKSND tỉnh Yên Bái đã ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 12/QĐ-VKS-P1 kháng nghị Bản án hình sự sơ thẩm của TAND tỉnh Yên Bái đối với vụ án Lăng Đức Hân cùng đồng phạm, phạm các tội  “Vận chuyển, sử dụng trái phép vật liệu nổ” quy định tại khoản 4 Điều 305 của BLHS và “Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên” quy định tại khoản 2 Điều 227 của BLHS.

Từ ngày 02/11/2023 đến ngày 04/11/2023 và 07/11/2023, TAND tỉnh Yên Bái đã đưa vụ án Lăng Đức Hân cùng đồng phạm, phạm các tội “Vận chuyển, sử dụng trái phép vật liệu nổ” quy định tại khoản 4 Điều 305 của BLHS và “Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên” quy định tại khoản 2 Điều 227 của BLHS ra xét xử.

Tòa án cấp sơ thẩm sau đó đã tuyên các bị cáo trong vụ án là Lăng Đức Hân, Bùi Minh Đức phạm tội “Vận chuyển, sử dụng trái phép vật liệu nổ” và tội “Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên”; Nguyễn Trọng Tuấn, Nguyễn Văn Hậu, Bùi Mạnh Hùng phạm tội “Sử dụng trái phép vật liệu nổ” và tội “Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên”; Trần Đắc Việt, Nguyễn Văn Báu phạm tội “Vận chuyển trái phép vật liệu nổ”; Lưu Bằng Đoàn, Nguyễn Mạnh Hùng phạm tội “Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên”.

Riêng bị cáo Đinh Tiến Hùng được tuyên là không có tội.

Bản án sơ thẩm tuyên hình phạt đối với các bị cáo:

- Bị cáo Lăng Đức Hân bị xử phạt 16 năm tù về tội Vận chuyển, sử dụng trái phép vật liệu nổ; xử phạt 03 năm tù và phạt bổ sung 100 triệu đồng về tội Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên; tổng hợp hình phạt chung là 19 năm tù và phạt tiền là 100 triệu đồng.

- Bị cáo Nguyễn Văn Hậu bị xử phạt 15 năm 06 tháng tù về tội Sử dụng trái phép vật liệu nổ; xử phạt 02 năm 06 tháng tù và phạt bổ sung 100 triệu đồng về tội Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên; tổng hợp hình phạt chung là 18 năm tù và phạt tiền là 100 triệu đồng.

- Bị cáo Bùi Minh Đức bị xử phạt 15 năm 06 tháng tù về tội Vận chuyển, sử dụng trái phép vật liệu nổ; xử phạt 02 năm tù và phạt bổ sung 50 triệu đồng về tội Vi phạm quy định về khai thác trái phép tài nguyên; tổng hợp hình phạt chung là 17 năm 06 tháng tù và phạt tiền 50 triệu đồng.

- Bị cáo Nguyễn Trọng Tuấn bị xử phạt 12 năm tù về tội Sử dụng trái phép vật liệu nổ; xử phạt 02 năm tù và phạt bổ sung 50 triệu đồng về tội Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên; tổng hợp hình phạt chung là 14 năm tù và phạt tiền 50 triệu đồng.

- Bị cáo Bùi Mạnh Hùng bị xử phạt 15 năm tù về tội Sử dụng trái phép vật liệu nổ; xử phạt 02 năm tù và phạt bổ sung 50 triệu đồng về tội Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên; tổng hợp hình phạt chung là 17 năm tù và phạt tiền 50 triệu đồng.

- Bị cáo Nguyễn Văn Báu bị xử phạt 15 năm tù; bị cáo Trần Đắc Việt bị xử phạt 10 năm tù cùng về tội Vận chuyển trái phép vật liệu nổ.

- Bị cáo Lưu Bằng Đoàn và bị cáo Nguyễn Mạnh Hùng bị xử phạt 02 năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 04 năm; phạt bổ sung 50 triệu đồng về tội Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên.

Trên cơ sở kết quả điều tra có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh luận công khai tại phiên tòa, VKSND tỉnh Yên Bái xác định Bản án sơ thẩm đã bỏ lọt người phạm tội khi tuyên bị cáo Đinh Tiến Hùng không phạm tội Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên; bỏ lọt hành vi phạm tội khi xác định bị cáo Trần Đắc Việt, Nguyễn Văn Báu và quyết định hình phạt không phù hợp đối với bị cáo Trần Đắc Việt, cụ thể:

Toà án tuyên bị cáo Đinh Tiến Hùng không phạm tộibỏ lọt người phạm tội

VKSND tỉnh Yên Bái cho rằng, Bản án sơ thẩm không khách quan, toàn diện khi đánh giá cáo trạng chỉ dựa vào lời khai duy nhất của Nguyễn Văn Hậu để xác định Đinh Tiến Hùng có lời nói khởi xướng việc khai thác quặng trái phép tại mỏ núi Ngàng.

Hồ sơ vụ án thể hiện, ngày 18/10/2020 Đinh Tiến Hùng cùng Hậu và Tuấn gặp nhau tại quán cà phê Đồng Tâm bàn bạc về việc tổ chức khai thác khoáng sản trái phép. Hai trong ba người tham gia cuộc gặp gỡ lời khai về nội dung cuộc gặp. Trong đó, bị cáo Nguyễn Trọng Tuấn có 07 lời khai và 03 bản tự khai; Nguyễn Văn Hậu có 10 lời khai, 02 bản tự khai; tại các biên bản đối chất giữa Tuấn, Hậu với Đinh Tiến Hùng, các bị cáo này đều khai Đinh Tiến Hùng chủ động đặt vấn đề với nội dung: “Các ông có mỏ, tôi thì có "quan hệ". Bây giờ đang tiện việc làm đường thì cứ tiến hành khai thác quặng luôn. Tôi sẽ đứng ra lo "quan hệ, cơ chế" còn "Hùng lùn" đi tìm người về để khai thác quặng. Sau khi khai thác và bán được quặng thì tính toán trừ chi phí quan hệ, chi phí sản xuất thì tôi sẽ lấy 1/3 lợi nhuận, 2/3 còn lại là của Công ty Tuyên Huy và Hùng lùn”. Các tài liệu này đều được thu thập theo đúng trình tự pháp luật và có sự tham gia của luật sư bào chữa cho các bị cáo, Kiểm sát viên và ghi âm, ghi hình theo quy định, các lời khai nhất quán trong suốt quá trình điều tra vụ án.

Quá trình điều tra đã thu giữ điện thoại của Tuấn, Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định và trích xuất dữ liệu theo quy định của pháp luật, trong đó có tin nhắn giữa Tuấn và Đinh Tiến Hùng về việc hẹn gặp tại quán cà phê Đồng Tâm hồi 8h 48 phút ngày 18/10/2020. Tuấn đã giải trình rõ về nội dung tin nhắn là để hẹn gặp Đinh Tiến Hùng tại quán cà phê Đồng Tâm để cho Hậu yên tâm cho khai thác mỏ Núi Ngàng.

Việc gặp gỡ ngày 18/10/2020 cũng phù hợp với nhiều tài liệu chứng cứ khác như: lời khai của Tuấn về việc, ngày 15/10/2020 Tuấn gặp Đinh Tiến Hùng và Hân tại văn phòng công ty của Tuấn tại Hà Nội, tại cuộc gặp Đinh Tiến Hùng đặt vấn đề khai thác quặng ở mỏ của công ty Tuyên Huy, Tuấn trả lời Đinh Tiến Hùng “mỏ đấy chưa được cấp phép, cái này em phải bàn với Hậu”; Phù hợp lời khai của Nguyễn Mạnh Hùng về việc được nghe Tuấn và Đinh Tiến Hùng kể lại nội dung cuộc gặp ngày 18/10/2020, file ghi âm Nguyễn Mạnh Hùng giao nộp thể hiện cuộc nói chuyện giữa Tuấn với Nguyễn Mạnh Hùng nói về cuộc gặp gỡ này. Ngoài ra quá trình điều tra còn thu giữ, trích xuất được hàng loạt tin nhắn chiều ngày 18/10/2020 hỏi nhau về đường đi và hẹn gặp, khi Tuấn và Hậu đang trên đường di chuyển về thành phố Yên Bái để gặp Đinh Tiến Hùng.

Tại phiên tòa sơ thẩm, Hậu giữ nguyên lời khai về cuộc gặp ngày 18/10/2020. Tuấn khai: Tại cuộc gặp ở quán cà phê Đồng Tâm có lúc Tuấn nghe điện thoại nên chỉ “bập bõm” nghe và cũng không có ý kiến gì, sau khi ra về mới được Hậu nói lại về nội dung mà Đinh Tiến Hùng nói. Nội dung khai báo này của Tuấn thực chất là để làm mờ nhạt đi vai trò của bản thân, trốn tránh trách nhiệm, nhưng không vì vậy mà không thể hiện rõ hành vi phạm tội của Đinh Tiến Hùng.

Như vậy, với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của Hậu, Tuấn tại Toà hoàn toàn có đủ căn cứ để kết luận ngày 18/10/2020 Tuấn, Hậu và Đinh Tiến Hùng đã bàn bạc, thống nhất khai thác khoáng sản trái phép. Việc Hội đồng xét xử (HĐXX) sơ thẩm nhận định cho rằng, chỉ có lời khai duy nhất của Hậu, nên không đủ căn cứ để xác định Đinh Tiến Hùng có lời nói khởi xướng, ăn chia lợi nhuận về việc khai thác quặng trái phép tại mỏ núi Ngàng là không khách quan, toàn diện.

TAND tỉnh Yên Bái đưa vụ án ra xét xử từ ngày 02/11/2023 đến ngày 04/11/2023 và 07/11/2023 (Ảnh: Dân trí).

Ngoài ra, VKSND tỉnh Yên Bái cho rằng Bản án sơ thẩm đã sai lầm khi nhận định: Đinh Tiến Hùng không phải là người thúc đẩy hoạt động khai thác quặng trái phép ở mỏ núi Ngàng, việc khai thác chưa được triển khai trong thực tế, Đinh Tiến Hùng chưa được hưởng lợi gì nên không phạm tội.

Kết quả điều tra đã xác định rõ, mỏ núi Ngàng của Công ty Tuyên Huy đã hết hạn cấp phép khai thác từ năm 2009; nên trong thời gian từ năm 2009 đến năm 2020 (khoảng 11 năm), tại mỏ núi Ngàng không có bất cứ hoạt động khai thác khoáng sản nào. Mặc dù trong thời gian tháng 10/2020, Hân đã đề xuất việc khai thác nhưng Hậu và Tuấn đều không đồng ý với lý do mỏ chưa được cấp phép khai thác khoáng sản. Chỉ đến ngày 18/10/2020, khi Đinh Tiến Hùng hứa hẹn đứng ra lo cơ chế, quan hệ thì Hậu và Tuấn mới đồng ý hợp tác triển khai. Các bị cáo đều khai do biết rõ Đinh Tiến Hùng có “quan hệ lớn”, có thể lo “cơ chế, quan hệ”, nên mới “tin tưởng và hoàn toàn yên tâm” khai thác.

Quá trình điều tra đã trích xuất được tin nhắn thể hiện sự hứa hẹn, và tin tưởng vào mối quan hệ của Đinh Hùng, kể cả đến khi vụ án được phát hiện.

Trên cơ sở lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, cùng các tài liệu, hồ sơ, sổ sách xác định được, những thỏa thuận ngày 18/10/2020 đã được triển khai trong thực tế, Nguyễn Mạnh Hùng đã tìm được nhóm Ngô Thanh Sơn đưa lên mỏ để triển khai các hoạt động khai thác từ ngày 09/11/2020 đến ngày 30/12/2020, đã khai thác được số đá chứa quặng chì kẽm là 1.073,90242 tấn, có giá trị: 2.008.197.525,40 đồng. Do bị phát hiện khi chưa kịp bán số quặng này, nên các bị cáo chưa chia nhau lợi nhuận. Tuy vậy, các bị cáo Tuấn, Hậu, Nguyễn Mạnh Hùng, Hân đều khai rõ số đá chứa quặng khai thác được tại mỏ của Công ty Tuyên Huy sau khi bán được sẽ chia cho Đinh Tiến Hùng theo thoả thuận giữa Hậu, Tuấn và Đinh Tiến Hùng tại quán cà phê Đồng Tâm ngày 18/10/2020.

Như vậy, xuất phát từ đề nghị của Đinh Tiến Hùng, do tin tưởng Đinh Tiến Hùng có “quan hệ lớn”, có thể lo “cơ chế, quan hệ”, Hậu và Tuấn đã đồng ý hợp tác, tổ chức khai thác khoáng sản trái phép tại mỏ núi Ngàng. Thực tế các bị cáo đã tổ chức khai thác từ ngày 09/11/2020 đến ngày 30/12/2020, với số đá chứa quặng chì kẽm thu được là 1.073,90242 tấn, có giá trị 2.008.197.525,40 đồng. Do cùng bàn bạc, thống nhất với các bị cáo khác, dẫn đến việc khai thác trái phép khoáng sản tại mỏ núi Ngàng, nên Đinh Tiến Hùng phải đồng phạm chịu trách nhiệm hình sự về tội “Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên”. Bản án sơ thẩm đã sai lầm khi cho rằng bị cáo không phạm tội này.

Nghiêm trọng hơn, Bản án sơ thẩm đã bỏ qua hàng loạt tài liệu, chứng cứ khi nhận định: Đinh Tiến Hùng không tham gia và không có vai trò gì trong hoạt động khai thác mỏ trái phép cũng như đối phó với cơ quan chức năng khi hành vi phạm tội bị phát hiện.

Hàng loạt tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như kết quả xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm thể hiện sự chỉ đạo của Đinh Tiến Hùng đối với hoạt động khai thác khoáng sản trái phép tại mỏ núi Ngàng, như: Sau cuộc gặp ngày 18/10/2020 Đinh Tiến Hùng nhờ Nguyễn Mạnh Hùng tìm người đưa lên khai thác mỏ. Xuyên suốt quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm Nguyễn Mạnh Hùng đều khai: Khoảng giữa tháng 10/2020 Đinh Tiến Hùng có gọi điện cho tôi 02 lần, gặp trực tiếp 01 lần nhờ tôi tìm người đưa lên mỏ Công ty Tuyên Huy, tôi tìm được Ngô Thanh Sơn đưa lên mỏ giao cho ông Hùng già. Quá trình các đối tượng khai thác đá, bóc tách quặng, những lần có mặt tại mỏ, Nguyễn Mạnh Hùng đều báo cáo lại cho Đinh Tiến Hùng biết tình hình sản xuất trên mỏ và chất lượng quặng. Lời khai nhận này của Nguyễn Mạnh Hùng phù hợp với thỏa thuận giữa Tuấn, Hậu với Đinh Tiến Hùng ngày 18/10/2020; phù hợp với thực tế Sơn được Nguyễn Mạnh Hùng đưa lên mỏ lần đầu tiên cuối tháng 10/2020, sau đó đến 08/11/2020 chính thức lên mỏ để bắt đầu khai thác từ 09/11/2020.

Lời khai của các bị cáo phù hợp với tài liệu dữ liệu điện tử được thu thập theo quy định cho thấy, Đinh Tiến Hùng thường xuyên theo dõi, chỉ đạo quá trình khai thác, như: gọi điện hỏi Đức về việc sửa chiếc máy xúc dùng vào việc khai thác mỏ trái phép; nhắn tin hỏi số điện thoại của Hoàng Thị Tấm làm công việc quản lý trên mỏ, nhắc Hân nộp tiền điện dùng vào việc khai thác mỏ “A cho kế toán nộp tiền điện này cái nhé. K mai nó cắt”; trao đổi điện thoại với Lưu Bằng Đoàn về việc phát hiện “cái mắt trâu” (chỗ có quặng) tại mỏ dưới; các tin nhắn zalo với Tuấn trong đó có hình ảnh các mẫu quặng và trao đổi về chất lượng quặng.

Sau khi vụ án được phát hiện, Đinh Tiến Hùng đã cùng các bị cáo khác bàn cách đối phó với Cơ quan điều tra. Lời khai của Nguyễn Mạnh Hùng phù hợp với nội dung trong file ghi âm do Nguyễn Mạnh Hùng giao nộp, thể hiện Đinh Tiến Hùng bảo Nguyễn Mạnh Hùng tránh đi một thời gian, phòng điều tra đang thụ lý vụ án ấy ít người, không làm gì được đâu, sẽ đóng án sớm thôi. Ngoài ra, Đinh Tiến Hùng còn bố trí cuộc gặp giữa Tuấn với Hân. Tuấn và Hân đều khai: Sau khi Đức bị bắt quả tang về hành vi vận chuyển trái phép vật liệu nổ ngày 30/12/2020, Đinh Tiến Hùng đã liên hệ, sắp xếp buổi gặp mặt giữa Hân và Tuấn tại nhà khách Thanh Niên - tỉnh Đoàn Yên Bái để Hân và Tuấn bàn bạc, tìm hướng giải quyết. Bản thân Đinh Tiến Hùng khai: Cuối tháng 12/2020 khi công ty Hân bị Công an kiểm tra, trước khi Hân bị bắt, tôi và Hân gặp nhau nhiều lần tâm sự, chia sẻ. Hân nhờ tôi gọi Tuấn lên và bảo Hân đang ở nhà khách cơ quan tôi, tôi có đưa Tuấn lên phòng gặp Hân, tôi đi làm việc của tôi, tôi không biết các anh bàn công việc gì.

Mặc dù có hàng loại tài liệu chứng cứ được thu thập hợp pháp, liên quan chặt chẽ với nhau, chứng minh sự thật khách quan về việc tham gia chỉ đạo của Đinh Tiến Hùng đối với hoạt động khai thác trái phép, nhưng HĐXX cấp sơ thẩm đã đánh giá không đúng, khi chỉ căn cứ vào lời khai chối tội của bị cáo để xác định Đinh Tiến Hùng không tham gia và không có vai trò gì trong hoạt động khai thác mỏ trái phép.

Trong vụ án này Đinh Tiến Hùng là người khởi xướng việc phạm tội, rủ rê lôi kéo, thúc đẩy các bị cáo trong vụ án thực hiện hành vi phạm tội, tham gia chỉ đạo hoạt động phạm tội. Việc HĐXX cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo Đinh Tiến Hùng không phạm tội “Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên” là bỏ lọt người phạm tội giữ vai trò tổ chức.

Bỏ lọt hành vi phạm tội và quyết định hình phạt không phù hợp đối với một số bị cáo khác

VKSND tỉnh Yên Bái cũng xác định Bản án sơ thẩm đã bỏ lọt hành vi phạm tội khi xác định bị cáo Trần Đắc Việt, Nguyễn Văn Báu, bởi:

Thông qua chứng cứ là lời khai của Hân, Đức, Báu, Đoàn, Vũ Văn Quang, Đàm Văn Toàn xác định: Trong tháng 12/2020, Quang có 3-4 lần nhận vật liệu nổ từ Việt, Quang khai trước các lần vận chuyển, Việt đều gọi cho Quang đến nhận hàng. Trong ngày 19/12/2020 Việt có gọi cho Quang 03 cuộc điện thoại với nội dung Việt nhờ Báu vận chuyển cho một chuyến hàng, trong quá trình vận chuyển thì Báu phát hiện ra trong tải là vật liệu nổ do sờ nắn; Lời khai của Đoàn thể hiện ngày 19/12/2020 Đoàn có vận chuyển hộ Đức 04 bao tải từ bến Mỹ Gia lên mỏ núi Ngàng bằng xe ô tô, Đoàn khai Việt gọi, hỏi Đoàn đã đến bến Mỹ Gia để nhận hàng chưa. Ngoài ra còn các cuộc gọi giữa các đối tượng liên quan đến hành vi vận chuyển trái phép vật liệu nổ trong ngày 19/12/2020 như cuộc gọi của Quang cho Báu; cuộc gọi của Báu cho Đức; cuộc gọi của Đức cho Báu; cuộc gọi của Đoàn cho Báu. Các cuộc gọi phù hợp với các lời khai của Quang, Báu, Đoàn về việc Việt đã xuất kho vật liệu nổ và gọi điện cho các bị cáo vận chuyển vật liệu trái phép lên núi Ngàng ngày 19/12/2020.

Lời khai của Đức thể hiện ngày 18/12/2020 Đức nhờ Đoàn ngày 19/12/2020 vận chuyển hộ thuốc nổ từ bến Mỹ Gia đến mỏ núi Ngàng; Lời khai của Đàm Văn Toàn xác định trong tháng 12/2020, Toàn vào lán công nhân trên mỏ núi Ngàng, thấy có 04 bao tải thuốc nổ nhũ tương, mỗi bao nặng 24 kg, Toàn lấy 01 bao thuốc nổ vào nổ trong hầm lò. Ngày 20/12/2020, Đức gọi điện cho Việt hỏi về việc xuất vật liệu nổ và phát hiện thấy thiếu 01 bao, Đức hỏi Toàn thì Toàn nhận là đã lấy 01 bao vật liệu nổ mang vào trong hầm lò sử dụng. Cũng chính Việt khai nhận tất cả các lần xuất vật liệu nổ đều do Việt xuất kho, trừ ngày 30/12/2020.

Đồng thời CQĐT đã thu giữ được 40 kg thuốc nổ nhũ tương cất giữ tại mỏ dưới. Đức khai nhận đó là số vật liệu nổ do Đoàn vận chuyển lên, đã sử dụng hết 56 kg, còn lại 40 kg.

Như vậy có đủ căn cứ xác định ngày 19/12/2020, Việt có xuất kho 96 kg thuốc nổ loại nhũ tương và cùng Báu tổ chức vận chuyển trái phép vật liệu nổ. Việt, Báu phải chịu trách nhiệm hình sự về lần vận chuyển trái phép vật liệu nổ này

Bản án sơ thẩm xác định bị cáo Trần Đắc Việt, Nguyễn Văn Báu không thực hiện hành vi “Vận chuyển trái phép vật liệu nổ” vào ngày 19/12/2020: Cáo trạng số 06/CT-VKS-P1 ngày 13/02/2023 của VKSND tỉnh Yên Bái truy tố Trần Đắc Việt, Nguyễn Văn Báu về tội “Vận chuyển trái phép vật liệu nổ” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 305 BLHS với 02 lần vận chuyển trái phép vật liệu nổ vào các ngày 19/12/2020 và 30/12/2020.

HĐXX cho rằng các bị cáo chỉ phạm tội ngày 30/12/2020. Đồng thời cho rằng, quá trình điều tra không có tài liệu, chứng cứ chứng minh ngày 19/12/2020 bị cáo Việt đã xuất kho 04 bao tải chứa thuốc nổ; Không có chứng cứ chứng minh 04 bao tải do Đoàn nhận của Báu ngày 19/12/2020 là vật liệu nổ; Không xác định ai là người nhận của Đoàn 04 bao tải tại mỏ núi Ngàng; Không có chứng cứ chứng minh việc sử dụng 04 bao tải thuốc nổ tại mỏ núi Ngàng; Không có chứng cứ chứng minh khối lượng 04 bao tải là 96 kg thuốc nổ nhũ tương. Ngoài ra trong danh sách cuộc gọi điện thoại ngày 19/12/2020 không thể hiện cuộc điện thoại giữa Đức và Việt. Do đó không đủ căn cứ để buộc các bị cáo Việt, Báu về hành vi “Vận chuyển trái phép vật liệu nổ ngày 19/12/2020 như cáo trạng truy tố”.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm đánh giá không đúng vai trò, quyết định hình phạt quá nhẹ với bị cáo Trần Đắc Việt. Cụ thể: Bản án sơ thẩm nhận định các bị cáo Việt không giữ vai trò chính trong tội Vận chuyển, sử dụng trái phép vật liệu nổ, có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên được HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 54 BLHS để quyết định mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khoản 4 Điều 305 BLHS.

Tuy nhiên, trên cơ sở kết quả điều tra và xét hỏi công khai tại phiên tòa xác định được Việt với nhiệm vụ là Thủ kho vật liệu nổ công nghiệp của Công ty Ngọc Tâm, nhận sự chỉ đạo của Hân, phối hợp với Đoàn, Báu vận chuyển trái phép 96 kg thuốc nổ nhũ tương lên mỏ núi Ngàng vào ngày 19/12/2020; Ngày 30/12/2020, Việt phối hợp với Báu, Đức vận chuyển 294kg thuốc nổ các loại, 400 kíp điện các loại lên mỏ núi Ngàng. Việt phải chịu trách nhiệm đối với tổng khối lượng vật liệu nổ gồm 390kg các loại, 400 kíp điện các loại đã vận chuyển trái phép lên mỏ núi Ngàng. Trong vụ án này bị cáo Việt giữ vai trò là người thực hành, tích cực cùng Báu, Đức thực hiện hành vi vận chuyển trái phép vật liệu nổ lên mỏ núi Ngàng. HĐXX nhận định cho rằng, bị cáo Việt giữ vai trò là người giúp sức là chưa chính xác.

Về việc áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Việt, quá trình điều tra bị cáo khai báo quanh co, không thừa nhận hành vi phạm tội, chỉ đến phiên tòa sơ thẩm bị cáo mới khai nhận 01 hành vi phạm tội ngày 30/12/2020. Việc HĐXX áp dụng tình tiết giảm nhẹ Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s, và Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm theo quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS đối với bị cáo Việt là không có căn cứ. Ngoài ra, do bỏ lọt hành vi phạm tội ngày 19/12/2020, dẫn đến HĐXX cấp sơ thẩm cũng bỏ sót, không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Phạm tội 02 lần trở lên theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS đối với bị cáo.

Bị cáo Việt giữ vai trò cao trong vụ án, không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS, có nhiều tình tiết tăng nặng, nhưng HĐXX cấp sơ thẩm lại áp dụng Điều 54 BLHS để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là không đúng. Mức hình phạt HĐXX đã quyết định với các bị cáo không đảm bảo sự công bằng giữa các bị cáo (bị cáo Việt có vai trò cao hơn thì quyết định mức hình phạt thấp hơn bị cáo Báu).

Từ những phân tích trên, Viện trưởng VKSND tỉnh Yên Bái đã quyết định kháng nghị đối với Bản án hình sự sơ thẩm của TAND tỉnh Yên Bái đối với vụ án Lăng Đức Hân và đồng phạm, phạm các tội “Vận chuyển, sử dụng trái phép vật liệu nổ” quy định tại khoản 4 Điều 305 của BLHS và “Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên” quy định tại khoản 2 Điều 227 của BLHS, đề nghị TAND cấp cao tại Hà Nội căn cứ điểm a khoản 2 Điều 357, điểm a khoản 2 Điều 358 BLTTHS để xét xử lại vụ án hình sự nêu trên theo hướng: Bị cáo Đinh Tiến Hùng đã phạm tội “Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên”; các bị cáo Trần Đắc Việt, Nguyễn Văn Báu đã thực hiện hành vi phạm tội “Vận chuyển trái phép vật liệu nổ” vào ngày 19/12/2020; không cho bị cáo Trần Đắc Việt hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo các điểm s, t khoản 1 Điều 51, áp dụng tình tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS và tăng hình phạt đối với bị cáo.

Công Minh