Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự
Ngày đăng : 09:36, 08/11/2023
Thực hiện lời Bác dạy, các thế hệ cán bộ Kiểm sát của ngành Kiểm sát nhân dân đã không ngừng học tập, nâng cao trình độ, rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, nỗ lực phấn đấu, vượt qua khó khăn, thử thách, hoàn thành trọng trách mà Đảng và nhân dân giao phó. Nhiều tập thể và cá nhân được nêu gương điển hình tiên tiến, vinh dự được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Bằng khen và Huân chương cao quý. Nhiều cán bộ, Kiểm sát viên đã trở thành tấm gương sáng cho các thế hệ mai sau học tập cả về chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp. Thực hiện công cuộc cải cách tư pháp hiện nay do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, hơn lúc nào hết, mỗi cán bộ, Kiểm sát viên phải quyết tâm phấn đấu, rèn luyện thực hiện theo lời Bác dạy. Làm được điều này chính là góp phần thực hiện mục tiêu quan trọng của cải cách tư pháp “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa…”.
1. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác Kiểm sát hoạt động tư pháp
Đối với ngành Kiểm sát nhân dân, cán bộ, công chức và người lao động trong ngành luôn ghi nhớ và thực hiện lời dạy của Bác Hồ đối với ngành Kiểm sát. Lời dạy của Bác là phương châm, mục đích của mỗi cán bộ trong ngành Kiểm sát cần thiết phải ra sức phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện để xứng đáng với lời dạy của Bác. Đồng thời lời dạy đã được thể chế hóa tại Quyết định số 21/QĐ-VKSTC ngày 07/02/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao ban hành Quy tắc chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của người cán bộ Kiểm sát; áp dụng đối với cán bộ, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Kiểm tra viên, công chức khác, viên chức công tác tại VKSND, Viện kiểm sát quân sự các cấp.
Tại Chỉ thị số 01/CT-VKSTC ngày 27/12/2021 của Viện trưởng VKSND tối cao về công tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2022 tiếp tục khẳng định trong giai đoạn hiện nay, ngành Kiểm sát nhân dân phải kiên định mục tiêu, lý tưởng và xây dựng Ngành toàn diện theo lời dạy của Bác. Cụ thể là: “Tập trung xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức, Kiểm sát viên, Điều tra viên với đầy đủ các phẩm chất: “Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”. Với những quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức VKSND năm 2014 và các đạo luật về tư pháp, đối tượng của kiểm sát hoạt động tư pháp chính là sự tuân thủ pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong hoạt động tư pháp. Bởi vì kiểm sát hoạt động tư pháp chính là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các chủ thể trong hoạt động tư pháp. Bản chất của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp là kiểm tra tính hợp pháp của các quyết định và hành vi của cá nhân, tổ chức, cơ quan trong hoạt động tư pháp. Như vậy, đối tượng của hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp chính là các quyết định và hành vi của các cơ quan, tổ chức và cá nhân tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng tư pháp. Việc xác định đúng đối tượng kiểm sát hoạt động tư pháp để phát hiện, kiểm tra tính hợp pháp, tính có căn cứ của các quyết định và hành vi đó có ý nghĩa quan trọng nhằm thực hiện được mục đích của công tác kiểm sát và thực hiện có hiệu quả các quyền năng pháp lý của VKSND, hướng tới mục tiêu bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp cải cách tư pháp, có nhiều việc phải làm, song trước hết, cùng với việc nâng cao năng lực, trình độ của Kiểm sát viên và cán bộ kiểm sát, phải thường xuyên quán triệt và thực hiện nghiêm chỉnh lời dạy của Bác Hồ đối với cán bộ Kiểm sát là phải "Công minh, Chính trực, Khách quan, Thận trọng, Khiêm tốn”. Lời dạy của Bác phải được cụ thể hóa bằng hành động trong từng công việc cụ thể hàng ngày đối với cán bộ, Kiểm sát viên.
Lời dạy của Bác Hồ được vận dụng vào khâu công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự là công tác thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND, nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án kịp thời, đúng pháp luật. Theo Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 thì: Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật… Tại khoản 2 Điều 4 của Bộ luật này và Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Hàng năm, VKSND tối cao ban hành Chỉ thị công tác của ngành Kiểm sát nhân dân, nhất là năm 2022, Viện trưởng VKSND tối cao ban hành Chỉ thị số 05/CT-VKSTC ngày 18/10/2022 về việc thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc dân sự và nững việc khác theo quy định của pháp luật.
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác giải quyết các vụ, việc dân sự
Cán bộ, Kiểm sát viên khi thụ lý, giải quyết án dân sự phải căn cứ vào quy định tại điểm e khoản 2 Điều 6 và Điều 27 Luật tổ chức VKSND năm 2014. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 tiếp tục khẳng định “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự” là một trong những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tố tụng dân sự. Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên tại các điều 57, 58, 59. Với chức năng, nhiệm vụ được giao, Viện kiểm sát phải kiểm sát các quyết định, các văn bản, hoạt động tố tụng của Tòa án theo quy định của BLTTDS năm 2015; theo Quy chế công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, ban hành kèm theo Quyết định số 364/QĐ-VKSTC ngày 02/10/2017 của Viện trưởng VKSND tối cao và văn bản Hướng dẫn nghiệp vụ do VKSND tối cao ban hành khi thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự phải: Nghiên cứu thẩm quyền thụ lý vụ việc dân sự; Xác định đúng quan hệ pháp luật phát sinh tranh chấp của vụ kiện chưa? Việc áp dụng của Tòa án về thời hiệu khởi kiện; Nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án phải nghiên cứu các chứng cứ là vấn đề rất quan trọng trong việc xác định điểm mấu chốt của vụ việc, Kiểm sát viên phải xác định được các chứng cứ trong vụ án được thu thập và được lập theo đúng trình tự, thủ tục theo quy định tại Điều 93 BLTTDS không? Khi nghiên cứu về thủ tục thu thập tài liệu, chứng cứ cần phải chú ý về việc lấy lời khai đương sự: Các biên bản lấy lời khai phải do người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện như Thẩm phán, Kiểm sát viên. Đối với người chưa thành niên, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi phải có người đại diện hợp pháp của họ tham gia tố tụng. Đương sự là cơ quan, tổ chức do người đại diện hợp pháp tham gia tố tụng, việc sửa chữa biên bản ghi lời khai đương sự phải có xác nhận bằng chữ ký của họ xem lời khai trước với lời khai sau có mâu thuẫn không? Phân tích, đánh giá lời khai có phù hợp với chứng cứ trong hồ sơ vụ việc dân sự. Theo yêu cầu của các đương sự hoặc khi các lời khai có mâu thuẫn, Thẩm phán có tiến hành đối chất theo quy định tại Điều 100 BLTTDS năm 2015? Việc hệ thống được lời khai của các đương sự và các chứng cứ liên quan sẽ giúp Kiểm sát viên định hướng được các vấn đề cần bổ sung hay cần làm rõ tại phiên tòa. Đối với lời khai người làm chứng là một trong những nguồn cung cấp chứng cứ quan trọng, nhưng phải yêu cầu họ cam đoan về lời khai của mình theo quy định tại Điều 99 BLTTDS. Khi nghiên cứu nguồn chứng cứ này, cần chú ý tính khách quan trong lời khai của họ; xem xét mối quan hệ của họ với nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, từ đó đánh giá lời khai của họ một cách khách quan, toàn diện… Chuẩn bị đề cương hỏi và những vấn đề cần đối đáp và phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa, xem xét lại Bản án, quyết định của Tòa án có đúng quy định của pháp luật không? Từ đó, VKSND các cấp yêu cầu Kiểm sát viên được phân công làm công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, tích cực, chủ động đề ra các biện pháp cụ thể để thực hiện.
Khi kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự, Kiểm tra viên, Kiểm sát viên phải nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự. Đây là một thao tác nghiệp vụ có tính khoa học và tính logic, là sự đánh giá, xâu chuỗi các sự kiện đã diễn biến trong các tài liệu có tại hồ sơ để đi đến một nhận định đúng đắn, khách quan trong tiến trình giải quyết vụ án. Kiểm sát viên phải công tâm khi nhìn nhận sự việc và đánh giá chứng cứ một cách khách quan, toàn diện. Vì vậy, Kiểm sát viên cần phải tập trung, phương pháp nghiên cứu phải được sáng tạo, đào sâu, soi kỹ, vận dụng một cách tinh tế những kinh nghiệm đã có và tri thức nghiệp vụ nhằm hệ thống hóa các tài liệu có tại hồ sơ để đề ra đường lối giải quyết vụ án. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 ngoài thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong đó có quyền yêu cầu đối với Tòa án, Viện kiểm sát các cấp đã thực hiện quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Viện kiểm sát để thực hiện thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
3. Một số đề xuất, kiến nghị
Qua công tác kiểm sát thụ lý, giải quyết các vụ, việc dân sự và hôn nhân gia đình, cần đề xuất kiến nghị một số vấn đề sau:
Một là, tiếp tục quán triệt, triển khai những văn bản quy phạm pháp luật như BLTTDS năm 2015, Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật tổ chức VKSND năm 2014, đặc biệt quán triệt nội dung Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 của VKSND tối cao và Tòa án nhân dân tối cao; Quy chế của VKSND tối cao về công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự (ban hành kèm theo quyết định số 364/QĐ-VKSTC ngày 02/10/2017 của Viện trưởng VKSND tối cao)...
Hai là, trên cơ sở rà soát số lượng và đánh giá chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên làm công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, cùng với số lượng vụ, việc thụ lý hàng năm, cần bố trí, sắp xếp cán bộ, Kiểm sát viên bảo đảm đủ về số lượng và đáp ứng yêu cầu chuyên môn nghiệp vụ; nên bố trí Kiểm sát viên làm việc lâu dài, hạn chế tối đa việc luân chuyển cán bộ, Kiểm sát viên làm khâu công tác này.
Ba là, cần quan tâm việc hệ thống hoá văn bản pháp luật về kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự trong ngành Kiểm sát nhân dân để thuận tiện cho việc tra cứu của Kiểm sát viên; thường xuyên tập hợp thông báo rút kinh nghiệm, hướng dẫn nghiệp vụ đầy đủ, kịp thời để tháo gỡ khó khăn phát sinh trong thực tiễn. Cần xây dựng kho dữ liệu điện tử để hệ thống hoá văn bản pháp luật, văn bản hướng dẫn nghiệp vụ về kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự theo hướng mở để Kiểm sát viên chia sẻ, cập nhật thường xuyên.
Bốn là, Viện kiểm sát cấp trên cần tiếp tục tăng cường công tác thông báo rút kinh nghiệm nghiệp vụ, nhất là về những vụ việc Tòa án không thực hiện yêu cầu của Viện kiểm sát và bị Viện kiểm sát kháng nghị nhưng phải rút kháng nghị hoặc kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bị bác.
Năm là, tiếp tục xác định việc nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự là nhiệm vụ trọng tâm; phân công Kiểm sát viên có trình độ năng lực chuyên môn, nghiệp vụ tốt làm công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự.
Sáu là, có chế độ ưu tiên động viên, khen thưởng đối với cán bộ, Kiểm sát viên làm công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự; đồng thời, khuyến khích tự nghiên cứu, đào tạo và đúc kết, rút kinh nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, coi đây là yếu tố chính để nâng cao chất lượng công tác này nói chung và việc thực hiện quyền yêu cầu nói riêng.
Bảy là, chủ động phối hợp với các nhà trường của ngành trong việc bồi dưỡng kiến thức pháp luật và nghiệp vụ cho Kiểm sát viên, công chức đơn vị mình, chú trọng công tác tự đào tạo tại đơn vị với các hình thức đa dạng, phù hợp.
Tám là, cần duy trì và tăng cường công tác phối hợp giữa Viện kiểm sát cấp trên với Viện kiểm sát cấp dưới; giữa Viện kiểm sát với Toà án trong quá trình kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự, nhằm đảm bảo việc thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị được kịp thời và đúng quy định pháp luật.
Chín là, chú trọng nâng cao chức năng, nhiệm vụ của Viện Kiểm sát về công tác giải quyết án dân sự, đặc biệt là tăng cường kiểm sát quyền lực Nhà nước, bảo về người yếu thế, lợi ích công của cộng đồng.