Lý luận về cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
Ngày đăng : 13:50, 26/10/2023
Bài viết nghiên cứu và phân tích để làm sáng tỏ về mặt lý luận 05 phạm trù khoa học cơ bản và quan trọng có liên quan nhằm góp phần hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, với tư cách là một trong ba nhóm vấn đề trọng tâm được đề ra tại Nghị quyết số 27-NQ/TW trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là: 1) Bản chất pháp lý của cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước; 2) Khái niệm và nội hàm của cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước; 3) Những nguyên tắc cơ bản của việc thực thi cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước; 4) Các mục tiêu của việc thực thi cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước; 5) Mối quan hệ giữa các nhánh quyền lực trong quá trình (khi) thực thi cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Sự cần thiết của các nghiên cứu về hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
Trong khoa học pháp lý Việt Nam hiện nay, việc kiểm soát quyền lực (KSQL) nhà nước hiệu quả là vô cùng cấp bách, vì Nhà nước và Đảng ghi nhận 02 cơ sở (căn cứ) về mặt hiến định và chính trị quan trọng nhất là:
1.1. Về mặt hiến định, khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
1.2. Mục I “Tình hình” của Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền (NNPQ) xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW) đã nêu: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn chưa được luận giải một cách đầy đủ, thuyết phục; tổ chức bộ máy nhà nước, hệ thống pháp luật còn một số bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Quyền lực nhà nước chưa được kiểm soát hiệu quả, cơ chế KSQL chưa hoàn thiện... Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập nêu trên chủ yếu là do: ... công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, hoàn thiện lý luận chưa được quan tâm đúng mức...”. Như vậy, toàn bộ các luận điểm này của Đảng đã khẳng định sự cần thiết của việc nghiên cứu để làm sáng tỏ về mặt khoa học các nội dung liên quan đến lý luận về KSQL nhà nước.
2. Về hệ thống các luận điểm chủ yếu có liên quan đến công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Nghị quyết số 27-NQ/TW
Nghị quyết số 27-NQ/TW đã ghi nhận hệ thống các nhóm luận điểm chủ yếu mang tính tổng thể về xây dựng NNPQ, trong từng nhóm luận điểm chủ yếu đó lại bao hàm (chứa đựng) rất nhiều những vấn đề học thuật cơ bản rộng lớn, đa dạng và phức tạp tương ứng với mỗi lĩnh vực khác nhau. Chẳng hạn như: 1) Mục II “Quan điểm” đề cập đến 05 nhóm luận điểm chủ yếu mang tính quan điểm về xây dựng NNPQ; 2) Mục III “Mục tiêu, trọng tâm” đề cập đến các luận điểm chủ yếu về 01 mục tiêu tổng quát và 05 mục tiêu cụ thể, cũng như 03 nội dung trọng tâm của công cuộc xây dựng NNPQ; 3) Mục IV “Nhiệm vụ, giải pháp” đề cập đến 10 nhóm luận điểm chủ yếu về những vấn đề liên quan đến các nhiệm vụ và các giải pháp khác nhau cần được triển khai trong quá trình xây dựng NNPQ...
3. Về phạm vi nghiên cứu
Phân tích trên đã cho thấy sự rộng lớn, đa dạng và phức tạp của phạm vi những vấn đề học thuật cơ bản về xây dựng NNPQ theo tinh thần của các luận điểm trong Nghị quyết số 27-NQ/TW. Đó có thể là hệ thống lý luận trong khoa học pháp lý đề cập đến danh mục của các hướng nghiên cứu học thuật khác nhau về một loạt vấn đề tương ứng với rất nhiều lĩnh vực như: 1) Về những nguyên tắc cơ bản của NNPQ xã hội chủ nghĩa Việt Nam; 2) Về các nguyên tắc phân công và phối hợp (hay từng nguyên tắc) trong việc tổ chức (hoặc/và) thực hiện các (hoặc từng) quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp; 3) Về tổ chức (hoặc/và hoàn thiện) bộ máy quyền lực nhà nước; 4) Về tổ chức (hoặc/và hoàn thiện) nguyên tắc (hoặc cơ chế) KSQL nhà nước; 5) Về tổ chức cơ chế bảo vệ Hiến pháp... Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của bài viết này, tác giả chỉ đề cập đến một số vấn đề lý luận cơ bản và quan trọng nhất thuộc nội dung trọng tâm thứ hai của tiểu mục 2 Mục III nêu trên, đó là: “Hoàn thiện cơ chế KSQL nhà nước”.
II. NỘI DUNG VẤN ĐỀ
1. Bản chất pháp lý của cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền
Lợi ích của việc làm sáng tỏ về mặt lý luận bản chất pháp lý của cơ chế KSQL nhà nước là:
Một là, vấn đề KSQL nhà nước trong hàng trăm năm qua là khát vọng của loài người tiến bộ.
Hai là, luận điểm tiến bộ - đầy tính nhân văn và được thừa nhận chung trong khoa học pháp lý hàng trăm năm qua là: Việc KSQL nhà nước (nói chung) chỉ có thể đạt được trên cơ sở nguyên tắc phân công quyền lực thành 03 nhánh (lập pháp - hành pháp - tư pháp) với tư cách là nguyên tắc cơ bản được thừa nhận chung quan trọng nhất của NNPQ.
Ba là, trên cơ sở sự thống nhất về quyền lực, chính nguyên tắc phân công lao động (mà không phân chia) quyền lực trong NNPQ sẽ tạo nên sự cân bằng quyền lực giữa các cơ quan công quyền thuộc các nhánh quyền lực nhà nước bằng cơ chế “kiểm tra và cân bằng” - tức là sự kiểm tra và giám sát lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực đó.
Bốn là, bản chất của 02 phạm trù “kiểm tra” và “cân bằng” cần được lý giải một cách khoa học, tường minh và chính xác. Bản chất đích thực của 02 phạm trù này là: 1) “Kiểm tra” - là bảo đảm cho việc tổ chức và thực hiện mỗi nhánh quyền lực được thực thi có hiệu quả trong thực tiễn tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước, nhưng sự kiểm tra này không tuyệt đối mà luôn bị kiểm tra lại (kiềm chế) bởi 02 nhánh quyền lực kia, để cơ quan công quyền của mỗi nhánh và người có thẩm quyền của mỗi cơ quan tương ứng thuộc từng nhánh tuân thủ - chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật. Nói cách khác, “kiểm tra” là tạo ra ranh giới trong quá trình thực hiện quyền lực công; 2) “Cân bằng” - là sự phân công một cách rõ ràng, rành mạch quyền lực (thẩm quyền, chức năng và trách nhiệm) sao cho tương xứng với các cơ quan công quyền thuộc các nhánh quyền lực nhà nước, để tránh sự lạm quyền, bảo đảm được sự cân bằng quyền lực giữa các cơ quan này và không một nhánh quyền lực nào có đủ cơ hội - khả năng để lấn át nhánh quyền lực kia.
Năm là, 02 phạm trù “kiểm tra” và “cân bằng” chính là 02 yếu tố quan trọng nhất của cơ chế KSQL nhà nước, hoàn toàn không mâu thuẫn với nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, cũng như nguyên tắc tập trung dân chủ trong giai đoạn xây dựng NNPQ ở Việt Nam hiện nay.
Sáu là, chỉ có bằng cơ chế KSQL nhà nước một cách thực sự theo đúng nghĩa của nó, thì toàn bộ hoạt động của bộ máy công quyền và người có thẩm quyền của bộ máy đó mới có thể tự giác vận hành theo đúng Hiến pháp và pháp luật, tránh được các biểu hiện xấu của sự tha hóa quyền lực.
Bảy là, nội hàm của cơ chế KSQL nhà nước ở bài viết này được hiểu theo đúng nghĩa hẹp của vấn đề. Nói cách khác, ở đây chỉ đề cập đến cơ chế KSQL nhà nước từ bên trong - tức là ngay trong bản thân bộ máy quyền lực nhà nước và bằng chính hoạt động kiểm tra - giám sát lẫn nhau của các cơ quan công quyền thuộc các nhánh quyền lực nhà nước trong NNPQ, mà không bàn về cơ chế KSQL nhà nước từ bên ngoài (như các cơ chế KSQL nhà nước của Đảng cầm quyền, của các tổ chức - đoàn thể xã hội, của Nhân dân).
2. Khái niệm và nội hàm (các đặc điểm cơ bản) của cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền
Theo tác giả, khái niệm KSQL nhà nước trong NNPQ có thể được định nghĩa như sau: Cơ chế KSQL nhà nước trong NNPQ là tổng thể các phương thức, khả năng và quy tắc được ghi nhận trong Hiến pháp và cụ thể hóa trong các đạo luật khác với tư cách là những cơ sở pháp lý để cơ quan chuyên trách của bộ máy quyền lực nhà nước thuộc nhánh quyền lực tương ứng được phân công chức năng giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước dựa vào đó triển khai việc kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản pháp luật có dấu hiệu vi phạm do cơ quan công quyền hoặc/và lãnh đạo của các cơ quan này ban hành, đồng thời tiến hành thủ tục tố tụng về Hiến pháp đối với các vụ việc có liên quan đến các quy phạm hiến định, nhằm góp phần làm cho quá trình tổ chức quyền lực nhà nước được tuân thủ theo đúng các quy định và trong giới hạn của Hiến pháp và pháp luật, tạo ra cơ chế “kiểm tra và cân bằng” giữa các nhánh quyền lực nhà nước trong NNPQ. Từ định nghĩa khoa học của khái niệm cơ chế KSQL nhà nước trong NNPQ và trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn tổ chức và thực thi cơ chế KSQL nhà nước ở các nước, có thể khẳng định nội hàm của KSQL nhà nước có các đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản sau đây:
2.1. Cơ chế KSQL nhà nước trong NNPQ là tổng thể các phương thức - khả năng và quy tắc được điều chỉnh trong Hiến pháp và các đạo luật khác với tư cách là những cơ sở pháp lý để cơ quan chuyên trách của bộ máy quyền lực nhà nước thuộc 03 nhánh quyền lực tương ứng (quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp) được phân công chức năng giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước dựa vào đó thực hiện các hoạt động của mình.
2.2. Cơ chế KSQL nhà nước trong NNPQ bao gồm phương thức kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản pháp luật nhất định có dấu hiệu vi phạm do một số cơ quan công quyền hoặc/và lãnh đạo của các cơ quan này ban hành.
2.3. Cơ chế KSQL nhà nước trong NNPQ bao gồm khả năng tiến hành thủ tục tố tụng về Hiến pháp đối với các vụ việc có liên quan đến các quy phạm hiến định bị vi phạm.
2.4. Cơ chế KSQL nhà nước trong NNPQ nhằm góp phần làm cho quá trình thực hiện quyền lực nhà nước được tuân thủ theo đúng các quy định của Hiến pháp và pháp luật.
2.5. Cơ chế KSQL nhà nước trong NNPQ nhằm góp phần tạo ra cơ chế “kiểm tra và cân bằng” giữa các nhánh quyền lực nhà nước trong NNPQ vì lợi ích chung của Nhân dân và toàn xã hội.
2.6. Bảo vệ một cách hữu hiệu những cơ sở của chế độ hiến định, các quyền và tự do hiến định của con người và của công dân với tư cách là các giá trị xã hội cao quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại.
3. Những nguyên tắc cơ bản của việc hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
Theo quan điểm của tác giả, khái niệm đang nghiên cứu có thể được hiểu: Nguyên tắc cơ bản của việc hoàn thiện cơ chế KSQL nhà nước trong giai đoạn xây dựng NNPQ Việt Nam là tư tưởng chỉ đạo và là định hướng cơ bản mà thông qua đó thể hiện nội dung chủ yếu và các lợi ích xã hội tương ứng của hệ thống các cơ quan công quyền thuộc các nhánh quyền lực nhà nước được quy định trong Hiến pháp, đồng thời phản ánh mối quan hệ của các nhánh quyền lực này, cũng như các quy luật phát triển khách quan tác động đến toàn bộ công cuộc xây dựng NNPQ trên đất nước ta. Như vậy, trên cơ sở khái niệm được đưa ra và các quy luật khách quan đang tồn tại ở Việt Nam (về kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, lịch sử - truyền thống,...) tác động đến công cuộc xây dựng NNPQ, đồng thời phân tích các quan hệ xã hội - pháp lý đang hình thành trong giai đoạn phát triển của xã hội Việt Nam đương đại, cho phép xác định các nguyên tắc cơ bản của việc hoàn thiện cơ chế (cũng gọi là sự hoặc quá trình) KSQL nhà nước trong giai đoạn xây dựng NNPQ sau đây:
3.1. Việc hoàn thiện cơ chế KSQL nhà nước trong giai đoạn xây dựng NNPQ Việt Nam cần dựa trên các tư tưởng pháp lý tiến bộ được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại và tuân theo các nguyên tắc cơ bản được thừa nhận chung của NNPQ.
3.2. Việc hoàn thiện cơ chế KSQL nhà nước trong giai đoạn xây dựng NNPQ Việt Nam phải nhằm hướng tới việc bảo vệ một cách vững chắc và hữu hiệu các quyền và tự do của con người và của công dân với tư cách là các giá trị xã hội cao quý nhất của nền văn minh nhân loại.
3.3. Việc hoàn thiện cơ chế KSQL nhà nước trong giai đoạn xây dựng NNPQ Việt Nam cần được tiến hành bằng các cơ chế dân chủ, công khai và minh bạch để đảm bảo sự thể hiện cao nhất, đầy đủ nhất ý chí của Nhân dân với tư cách là chủ thể cao nhất của quyền lực nhà nước.
3.4. Việc hoàn thiện cơ chế KSQL nhà nước trong giai đoạn xây dựng NNPQ Việt Nam cần dựa trên sự phân tích một cách khách quan, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục các quan hệ xã hội đang tồn tại và sẽ phát triển trong xã hội, cũng như hiệu quả xã hội của các quy phạm và các chế định pháp lý về quyền lực được các cơ quan nhà nước cao nhất thuộc ba nhánh quyền lực áp dụng trong hoạt động thực tiễn của mình.
3.5. Việc hoàn thiện cơ chế KSQL nhà nước trong giai đoạn xây dựng NNPQ Việt Nam cần dựa trên những luận chứng khoa học thể hiện sự kết hợp hài hòa các luận điểm khoa học pháp lý và khoa học chính trị về quyền lực của Việt Nam với các thành tựu tiên tiến của khoa học pháp lý và khoa học chính trị về quyền lực trên thế giới, nhằm đáp ứng kịp thời các yêu cầu (đòi hỏi) cấp bách của quá trình tổ chức và KSQL nhà nước trong thực tiễn, cũng như những yêu cầu thiết thực của công cuộc xây dựng NNPQ hiện nay (như về tổ chức - cán bộ, thẩm quyền, chức năng và nhiệm vụ...) trong hệ thống các cơ quan công quyền thuộc ba nhánh quyền lực nhà nước.
3.6. Và cuối cùng, việc hoàn thiện cơ chế KSQL nhà nước trong giai đoạn xây dựng NNPQ Việt Nam cần đảm bảo ở mức cao nhất trong các lĩnh vực tương ứng bằng một loạt các thiết chế như: 1) Chế định kiểm tra Hiến pháp; 2) Sự độc lập đích thực và sự kiểm tra của nhánh quyền tư pháp đối với hai nhánh quyền lực khác (quyền lập pháp và quyền hành pháp) đối với các nhánh quyền lực còn lại (quyền lập pháp và quyền hành pháp); 3) Sự phối hợp và chế ước lẫn nhau một cách hài hòa và đồng bộ giữa ba nhánh quyền lực này.
4. Các mục tiêu của việc hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền
4.1. Bằng việc hoàn thiện cơ chế KSQL nhà nước phải góp phần nâng cao ý thức pháp luật để đảm bảo tốt sự nhận thức - khoa học thống nhất trong giới luật học (nói riêng) và trong toàn xã hội (nói chung) về sự cần thiết tất yếu của một số khái niệm, phạm trù và chế định pháp lý cơ bản có liên quan đến các lĩnh vực tương ứng mà chúng không thể thiếu trong một NNPQ đích thực như: 1) Sự phân công quyền lực nhà nước thành ba hoặc bốn nhánh để bảo đảm cơ chế “kiểm tra và cân bằng” lẫn nhau của chúng; 2) Sự độc lập thực sự của quyền tư pháp để thực hiện chức năng kiểm tra Hiến pháp nhằm phòng ngừa và chống lại các vi phạm Hiến pháp; 3) Sự tôn trọng thực sự từ phía quyền lực nhà nước và sự bảo vệ bằng hệ thống Tòa án công minh, độc lập và chỉ tuân theo pháp luật đối với các quyền và tự do của con người và của công dân,...
4.2. Bằng việc hoàn thiện cơ chế KSQL nhà nước phải góp phần làm cho nhánh quyền tư pháp (hoặc quyền kiểm tra Hiến pháp) được tổ chức một cách khoa học, khả thi và độc lập để đảm bảo thực hiện tốt các nhiệm vụ sau: 1) Hoạt động tố tụng về Hiến pháp đối với các văn bản vi hiến và các hành vi được thực hiện trên cơ sở các văn bản vi hiến; 2) Sự kiểm tra của quyền tư pháp đối với tính hợp hiến của các văn bản do các cơ quan quyền lực nhà nước, các tổ chức xã hội, các lực lượng vũ trang nhân dân và những người có chức vụ ban hành - tức là sự kiểm tra của Tòa án (hoặc Hội đồng bảo vệ Hiến pháp thuộc nhánh quyền tư pháp) đối với các nhánh quyền lực khác; 3) Sự vận hành có hiệu quả và đồng bộ của cơ chế kiểm tra và cân bằng của các nhánh quyền lực nhà nước nhằm góp phần đưa các nguyên tắc được thừa nhận chung của NNPQ vào đời sống hiện thực.
4.3. Bằng việc hoàn thiện cơ chế KSQL nhà nước phải góp phần làm cho: 1) Cơ sở của quyền lực nhà nước thực sự là ý chí của Nhân dân - chủ quyền của Nhân dân phải cao hơn chủ quyền của Nhà nước; 2) Hiến pháp và các luật phải là tối thượng trong toàn bộ hoạt động thực tiễn của bộ máy công quyền; 3) Các quyền và tự do của con người và của công dân được đảm bảo bằng các cơ chế pháp lý hữu hiệu và đồng bộ tránh khỏi sự lạm quyền, độc đoán và tùy tiện - tức là các quyền và tự do phải được ghi nhận chính xác về mặt lập pháp, thi hành đầy đủ trên thực tế về mặt hành pháp và bảo vệ vững chắc về mặt tư pháp.
4.4. Bằng việc hoàn thiện cơ chế KSQL nhà nước phải góp phần: 1) Làm cho tình hình vi phạm pháp luật (trong đó có tình hình tội phạm) giảm thiểu tối đa; 2) Làm cho hệ thống tư pháp của đất nước phải đủ sức đấu tranh có hiệu quả chống lại các tội phạm xuyên quốc gia và tội phạm quốc tế vì hòa bình và an ninh trong khu vực và trên thế giới; 3) Xây dựng và củng cố vững chắc niềm tin của Nhân dân vào sức mạnh của hệ thống tư pháp (nói riêng) và bộ máy quyền lực nhà nước (nói chung), cũng như vào pháp chế, hiệu lực và sự công minh của pháp luật trong NNPQ.
4.5. Bằng việc hoàn thiện cơ chế KSQL nhà nước phải góp phần đổi mới và làm cho hệ thống pháp luật của Việt Nam ngày càng hoàn thiện để hệ thống đó: 1) Không chỉ phù hợp với những điều kiện cụ thể của đất nước (về kinh tế - xã hội, văn hóa, lịch sử - truyền thống, tâm lý - đạo đức,...), mà còn phù hợp với các nguyên tắc và các quy phạm được thừa nhận chung của pháp luật quốc tế; 2) Có đủ khả năng tạo ra các căn cứ pháp lý khả thi cho sự hội nhập có hiệu quả của cơ quan lập pháp và hệ thống tư pháp quốc gia với cơ quan lập pháp và hệ thống tư pháp tương ứng của các nước trong khu vực và trên thế giới; 3) Tăng cường hiệu quả trong hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án trong bối cảnh toàn cầu hóa và đất nước đã gia nhập WTO.
5. Về mối quan hệ giữa các nhánh quyền lực khi hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền
Mối quan hệ của sự hài hòa và cân bằng quyền lực giữa ba nhánh quyền lực nhà nước (mà về cơ bản là quyền tư pháp và quyền lập pháp) được tạo nên bởi cơ chế “kiểm tra và cân bằng” (chế ước) giữa các nhánh quyền lực đó, trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Phân tích các quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến quá trình tổ chức và KSQL nhà nước ở các NNPQ là các quốc gia văn minh và phát triển cao trên thế giới cho thấy, khi thực hiện tốt các chức năng và thẩm quyền do luật định của mỗi nhánh quyền lực, thì toàn bộ cơ chế KSQL nhà nước tạo nên mối quan hệ hữu cơ và thể hiện rõ trên 03 khía cạnh chủ yếu - sự hài hòa, sự tương hỗ qua lại và sự biện chứng như sau:
5.1. Sự hài hòa trong mối quan hệ hữu cơ của cơ chế KSQL tư pháp và cơ chế KSQL lập pháp là: Theo quy định của Hiến pháp với tư cách là đạo luật cơ bản có hiệu lực pháp lý cao nhất, thì bằng hoạt động của mình, hai cơ chế KSQL nhà nước (quyền tư pháp và quyền lập pháp) cùng góp phần tạo nên sự hài hòa và cân bằng ở mức độ chấp nhận (nhất định) được giữa hai nhánh quyền lực đó, mà không lấn át lẫn nhau. Hiến pháp trong các NNPQ đích thực không cho phép nhánh quyền lực nào có được đặc quyền “giám sát tối cao” hoạt động của bất kỳ chủ thể khác trong bộ máy quyền lực nhà nước, tự cho mình là “tối cao” trước các nhánh quyền lực khác hoặc được phép quy định thêm thẩm quyền chưa được ghi nhận trong Hiến pháp.
5.2. Thực tiễn, sự tương hỗ qua lại trong mối quan hệ hữu cơ của cơ chế KSQL tư pháp và cơ chế KSQL lập pháp ở một số quốc gia là: Chính sự hài hòa và cân bằng giữa hai nhánh quyền lực (quyền tư pháp và quyền lập pháp) đã cho thấy rằng: Nếu bằng cơ chế KSQL lập pháp, cơ quan tố tụng tư pháp cao nhất thuộc nhánh quyền tư pháp của một quốc gia - Tòa án Hiến pháp độc lập, Hội đồng bảo vệ Hiến pháp thuộc nhánh quyền tư pháp hoặc Tòa Hiến pháp thuộc Tòa án nhân dân tối cao có toàn quyền kiểm tra tính hợp hiến của một văn bản pháp luật (Bộ luật hay Luật) do Quốc hội/Nghị viện (thuộc nhánh quyền lập pháp) ban hành và nếu văn bản pháp luật đó bị Tòa tuyên bố là vi hiến - bị hủy bỏ và không được áp dụng nữa, thì bằng cơ chế KSQL tư pháp, Quốc hội/Nghị viện (thuộc nhánh quyền lập pháp) có thẩm quyền giám sát hoạt động của nhánh quyền tư pháp với nhiều hình thức khác nhau (từ việc tham gia vào công tác nhân sự của bộ máy lãnh đạo ở cấp trung ương đến việc hình thành cơ cấu tổ chức - hoạt động và đồng thời nghe các báo cáo của cơ quan tố tụng tư pháp cao nhất đất nước - Tòa án Hiến pháp hoặc/và Tòa án nhân dân tối cao).
5.3. Và cuối cùng, sự (tính) biện chứng trong mối quan hệ hữu cơ của cơ chế KSQL tư pháp và cơ chế KSQL lập pháp là: Thực tiễn tổ chức - thực hiện và KSQL nhà nước ở một số quốc gia là các NNPQ trong nhiều thế kỷ qua đã minh chứng một cách xác đáng và khách quan rằng, chính nhờ vào sự hài hòa và cân bằng quyền lực, cũng như sự tương hỗ và qua lại lẫn nhau giữa hai nhánh quyền lực (quyền tư pháp và quyền lập pháp), nên hoạt động của các NNPQ luôn có sự phối hợp tốt trên cơ sở sự thống nhất quyền lực trong Nhân dân.
III. KẾT LUẬN VẤN ĐỀ
Việc nghiên cứu một số vấn đề khoa học cơ bản và quan trọng hơn cả từ lý luận về KSQL nhà nước trong giai đoạn xây dựng NNPQ Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết số 27-NQ/TW cho phép đưa ra một số luận điểm chung mang tính tổng kết dưới đây:
Một là, thực tiễn của các NNPQ trên thế giới và thực tiễn quốc tế đương đại trong thế kỷ XX và trong 02 thập kỷ đầu của thế kỷ XXI đã và đang minh chứng một cách có căn cứ rằng, trong bất kỳ một NNPQ đích thực nào, việc tổ chức và KSQL nhà nước một cách khoa học là nền tảng quan trọng nhất cho hoạt động của bộ máy công quyền trong sự nghiệp bảo vệ vững chắc và hữu hiệu sự công bằng xã hội, các quyền và tự do của con người và của công dân, cũng như các lợi ích của xã hội và của Nhà nước, để góp phần khẳng định các nguyên tắc được thừa nhận chung của NNPQ với tính chất là những giá trị xã hội cao quý nhất của nền văn minh nhân loại.
Hai là, việc thực thi cơ chế KSQL nhà nước trong giai đoạn xây dựng NNPQ Việt Nam chỉ có thể thành công nếu triển khai tốt và đồng bộ một loạt các cơ chế pháp lý chủ yếu quan trọng của một NNPQ đích thực để đảm bảo tốt các điều kiện cơ bản cho sự vận hành của hệ thống quyền lực như: 1) Sự độc lập thực sự của nhánh quyền tư pháp; 2) Sự phân công rành mạch, rõ ràng và khoa học quyền lực thành 03 nhánh quyền lực (quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp) với cơ chế “kiểm tra và chế ước” lẫn nhau; 3) Thực thi đầy đủ chế định kiểm tra Hiến pháp bằng nhánh quyền tư pháp, để bảo vệ chuyên trách các quy phạm hiến định và phòng ngừa các văn bản và hành vi xâm phạm đến Hiến pháp; 4) Sự bảo vệ một cách vững chắc và hữu hiệu các quyền và tự do của con người và của công dân bằng hệ thống Tòa án công minh và chỉ tuân theo pháp luật.
Ba là, sự nghiệp xây dựng NNPQ tại Việt Nam sẽ còn trải qua chặng đường dài khó khăn và thử thách, đòi hỏi sự bền bỉ và kiên định vì các lý tưởng về KSQL nhà nước (nói riêng) và NNPQ (nói chung) mà Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận.
Bốn là, các bộ, ngành và những người có liên quan trong các cơ quan công quyền thuộc tất cả các nhánh quyền lực từ trung ương đến các địa phương cần đặt lợi ích chung lên trên hết.
Năm là, để đảm bảo cho thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp xây dựng NNPQ thì thông qua các nghiên cứu về cơ chế KSQL nhà nước, cần khẩn trương triển khai soạn thảo đầy đủ học thuyết về quyền lực trong giai đoạn xây dựng NNPQ Việt Nam trên 03 lĩnh vực chủ yếu là:
- Về mặt thực tiễn, tiến hành tổng kết hoạt động của các cơ quan công quyền thuộc ba nhánh quyền lực (quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp) để đưa ra được các số liệu chính xác và đầy đủ về thực trạng đội ngũ, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và năng lực của cán bộ trong hệ thống của từng loại cơ quan thuộc mỗi nhánh.
- Về mặt lý luận, tiếp tục nghiên cứu để làm sáng tỏ những vấn đề mà thực tiễn xã hội nói chung và thực tiễn pháp lý nói riêng (nhất là thực tiễn hoạt động của các cơ quan công quyền) đang đặt ra và cần được phân tích, lý giải và làm rõ, để đưa ra các luận cứ khoa học xác đáng, khách quan và đảm bảo sức thuyết phục cho việc hoạch định đường lối, đề ra chủ trương và xây dựng các chính sách thích hợp của Đảng và Nhà nước.
- Về mặt lập pháp, từ các kết quả của việc tổng kết thực tiễn và trên cơ sở các thành tựu của việc nghiên cứu lý luận, cần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013; đồng thời, soạn thảo các văn bản pháp luật khả thi có liên quan để điều chỉnh một cách đồng bộ và hợp lý các quan hệ xã hội trong từng lĩnh vực tương ứng của giai đoạn xây dựng NNPQ Việt Nam.