Đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Ngày đăng : 08:00, 11/07/2023

(Kiemsat.vn) - Bằng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, tiếp cận liên ngành và so sánh, phân tích quy phạm, tác giả chứng minh, làm rõ những phát triển mới mang tính đặc thù của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phù hợp với các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội của đất nước trong giai đoạn phát triển mới.

Ngày 09/11/2022, Hội nghị lần thứ sáu của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 27/NQ-TW về việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27/NQ-TW). Tại Nghị quyết này, lần đầu tiên một văn bản chính thức của Đảng đã thống nhất nhận thức các đặc điểm của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Đây là cơ sở chính trị - pháp lý quan trọng định hướng hoàn thiện, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trong giai đoạn mới.

Có thể nói, việc thống nhất đưa ra nhận thức về đặc điểm của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới là nỗ lực rất lớn của Đảng, Nhà nước, bởi vẫn có quan niệm cho rằng, Nhà nước pháp quyền là nguyên tắc quản trị, giá trị phổ quát của nhân loại. Đó là những chuẩn mực mang tính toàn cầu và khác với các giá trị, yêu cầu đó thì không còn đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn pháp quyền (hay Nhà nước pháp quyền).

Không phủ nhận rằng, Nhà nước pháp quyền hay pháp quyền là thành quả đấu tranh lâu dài, bền bỉ của nhân loại chống lại cường quyền, áp bức, vô nhân đạo và bất công. Tuy nhiên, trên phương diện phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Mác, Nhà nước, pháp luật, đạo đức hay tôn giáo… đều là các bộ phận của cấu trúc thượng tầng và chịu sự chi phối, tác động và quy định bởi các điều kiện vật chất, cơ sở hạ tầng của xã hội cụ thể. Nhà nước pháp quyền vì vậy mà có tính phổ quát và tính đặc thù. Bài viết phân tích, làm rõ những giá trị phổ quát và tính đặc thù của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam dựa theo Nghị quyết số 27/NQ-TW và luận giải lý do Việt Nam lựa chọn những đặc thù đó, đồng thời chứng minh sự phát triển, phù hợp, hiện đại của nó. Qua đó, bài viết chứng minh những nhận thức mới của Việt Nam sẽ góp phần giải quyết một số vấn đề mang tính phương pháp luận khi vận dụng lý thuyết, mô hình Nhà nước pháp quyền vào điều kiện, bối cảnh cụ thể.

1. Đặc điểm và những phát triển mới trong nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

1.1. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân và do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo

Đây là một trong những nhận thức đặc biệt quan trọng, nhiều tính mới của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Tính phổ quát thể hiện ở điểm: Là Nhà nước pháp quyền thì phải là Nhà nước dân chủ, nghĩa là Nhà nước phải thuộc về Nhân dân và hình thành nên bằng con đường dân chủ.

Tuy nhiên, sự khác biệt lớn nhất nằm ở hai điểm là “tính nhân dân” và “sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”. Bàn về “tính nhân dân” của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, tưởng như không thấy có sự khác biệt lớn với các tiêu chuẩn dân chủ của Nhà nước pháp quyền, nhưng nhìn nhận từ góc độ văn hóa và chính trị, nhận thức này có sự phát triển mới.

Tư tưởng, quan điểm pháp quyền (Nhà nước pháp quyền) xuất hiện và phát triển ở phương Tây. Trong nền văn minh phương Tây, dân chủ gắn liền với ý chí tự do của cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân phát triển mạnh mẽ và trở thành nền tảng văn hóa phương Tây. Theo đó, quyền, tự do của con người được hiểu là quyền, tự do của mỗi cá nhân trong xã hội. Ở phương Đông/châu Á, bao gồm Việt Nam, con người sống trong tổng hòa các quan hệ, giá trị to lớn mà xã hội xây dựng, gìn giữ và bảo vệ là cộng đồng, truyền thống gia đình, ý thức quốc gia - dân tộc và các giá trị truyền thống khác. Theo đó, đối với phương Đông, dân chủ và quyền con người phải nằm trong tổng hòa các quan hệ xã hội, bao gồm cả tính cộng đồng, gia đình, dòng tộc và cá nhân. Vì lẽ đó, Nhà nước pháp quyền phải là Nhà nước “của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Thuật ngữ “Nhân dân” vừa mang tính cá thể, vừa mang tính cộng đồng, là tổng hòa các mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, gia đình, dòng tộc, xã hội và Nhà nước, vừa là quan hệ chính trị, đồng thời cũng là quan hệ văn hóa.

Như vậy, nếu hiểu dân chủ gắn với nhân quyền và nhân quyền gắn với quyền, tự do của cá nhân thì khó tương hợp được với văn hóa, nhận thức và nhân sinh quan của các dân tộc phương Đông, trong đó có Việt Nam. Nhà nước là giá trị, sản nghiệp chung, niềm tự hào chung, chỗ dựa chung, chuẩn mực chung mà họ hướng tới. Vì vậy, Nhà nước phải phục vụ cái chung, hòa hợp được giữa cái chung và cái riêng, giữa cộng đồng và cá nhân, giữa quan hệ chính trị và văn hóa. Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân thể hiện được ý niệm Nhà nước thuộc về cộng đồng người, phục vụ cộng đồng người và do cộng đồng người đó xây dựng lên. Đó là điểm khác biệt giữa Nhà nước dân chủ và Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân trong quan niệm và hệ giá trị giữa Đông và Tây. Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân trở thành một điểm mới, phù hợp với Việt Nam, nhưng vẫn tương thích với tính phổ quát trong đặc điểm này của Nhà nước pháp quyền.

Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là đội tiên phong của giai cấp công nhân, mà còn của Nhân dân lao động và cả dân tộc, đại biểu trung thành vì lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và cả dân tộc, gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình. Như vậy, Đảng đại diện cho tất thảy nhân dân lao động và cho cả dân tộc Việt Nam, mà không đơn thuần dựa hoàn toàn trên lập trường giai cấp. Đảng Cộng sản Việt Nam xác định mục tiêu đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội - xã hội thật sự vì con người; phát triển kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội; một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn; một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân, do Nhân dân và phục vụ lợi ích của Nhân dân, mà không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Rõ ràng, với bản chất như trên, Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sẽ khắc phục được sự bất bình đẳng trong điều kiện thực hiện quyền. Bên cạnh đó, trong một xã hội đa đảng, mỗi đảng lại đại diện cho nhóm lợi ích riêng mà Nhà nước pháp quyền lại được lãnh đạo bởi một đảng (đảng đó chỉ đại diện cho nhóm lợi ích riêng biệt hay cục bộ) thì sẽ xung đột với triết lý pháp quyền, còn khi Đảng Cộng sản Việt Nam là đại diện cho đại đa số người lao động và cả dân tộc (cho tất cả) thì không có lý do để tranh luận về tính đại diện, ý chí của Đảng và Nhà nước. Theo tác giả, đây là điểm nhân văn, tiến bộ của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

1.2. Quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật

Đây là đặc điểm mang tính phổ biến và đặc thù của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Mục đích tối thượng của Nhà nước pháp quyền là công lý và quyền con người. Không thể có pháp quyền nếu quyền con người không được bảo đảm, bảo vệ, tôn trọng và công nhận. Quyền con người dù có tính phổ quát, nhưng việc thực hiện và cách tiếp cận về quyền con người lại không giống nhau, bởi nó gắn liền với nhân sinh quan, hệ giá trị của quốc gia, dân tộc, tôn giáo hay chủng tộc người ở khu vực nhất định. Trong nền văn hóa phương Tây, con người thường được gắn với cá nhân và quyền con người cũng gắn với cá thể người, trong khi ở phương Đông, đặc biệt là vùng văn hóa Viễn Đông, con người nằm trong tổng hòa quan hệ với cộng đồng, gia đình, xã hội. Vì vậy, tuyệt đối hóa quyền cá nhân sẽ dẫn đến xung đột với hệ giá trị và truyền thống, văn hóa phương Đông.

Kể từ Hiến pháp năm 2013, Việt Nam đã công nhận các quyền con người như là các giá trị phổ quát và tách biệt quyền con người với quyền công dân, đồng thời cam kết công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm và thúc đẩy các quyền con người, quyền công dân. Bởi lẽ, sự tiến bộ của con người và vì lợi ích của con người cũng là mục tiêu tồn tại của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Hiện Việt Nam đang hoàn thiện các cơ chế chính trị, pháp lý để thực hiện các cam kết này. Đây là một trong những đặc điểm cơ bản, đồng thời cũng là mục tiêu, cam kết của Việt Nam trong việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN trong giai đoạn mới.

1.3. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật

Nhà nước pháp quyền là Nhà nước đặt mình dưới pháp luật, được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật. Chỉ khi luật pháp tối thượng thì mới có pháp quyền. Để Nhà nước đặt mình dưới pháp luật thì Hiến pháp phải có vị trí tối thượng và là ý chí đồng thuận của dân chúng. Một trong những chức năng chính của Hiến pháp là kiến tạo chính quyền và tạo cơ sở để chính quyền hoạt động, vậy nên, Việt Nam đã có những thay đổi mang tính chất cơ bản và nền tảng theo triết lý pháp quyền, đó là: Trong Lời nói đầu của Hiến pháp năm 2013, thay vì giao cho Quốc hội xây dựng Hiến pháp như các bản Hiến pháp trước đây, lần này, Nhân dân đã được xướng tên như là chủ thể lập hiến: “Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Như vậy, Quốc hội không phải là cơ quan có chủ quyền lập hiến, mà là chủ thể “thực hiện quyền lập hiến”. Điều này quan trọng bởi chỉ khi đó, Nhà nước mới đặt mình dưới Hiến pháp, do Hiến pháp tạo ra, vận hành theo Hiến pháp và các luật được xây dựng theo tinh thần Hiến pháp. Hiến pháp là luật cao nhất và khi Hiến pháp có hiệu lực tối cao thì mới có cơ hội cho pháp luật có được vị trí tối thượng - tiêu chí cơ bản và phổ quát của Nhà nước pháp quyền. Vì vậy, những thay đổi của Hiến pháp năm 2013 đã tạo tiền đề cơ bản và quan trọng nhất cho việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới.

Không chỉ tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và các luật được làm ra trên cơ sở Hiến pháp, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam còn khẳng định quản lý xã hội bằng pháp luật. Đây là sự bổ sung và khẳng định cho nhận thức thay đổi về vị trí của Hiến pháp và tính tối thượng của pháp luật. Sở dĩ cần có khẳng định này là bởi trước đây, không chỉ có pháp luật, Việt Nam còn quản lý xã hội bằng rất nhiều phương thức khác. Việc khẳng định này là sự bảo đảm chắc chắn rằng, ở Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, luật pháp là nền tảng để quản lý xã hội. Đây cũng là sự bảo đảm cho tính pháp quyền của Nhà nước Việt Nam XHCN.

1.4. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp

Đây là một trong những đặc điểm mang nhiều tính chất đặc thù của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, vừa là sự chọn lọc những tinh túy của phương thức, mô hình tổ chức quyền lực và quản trị quốc gia tiến bộ trên thế giới, nhưng vẫn giữ được những nét đặc thù trong điều kiện Việt Nam.

Điểm khác biệt so với mô hình tập quyền XHCN trước đây là quyền lực không tập trung vào một cơ quan mà tập trung ở nguồn cội của nó - Hiến pháp - chủ quyền nhân dân. Các cơ quan như Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân… chỉ là cơ quan thực hiện quyền, mà không phải là cơ quan nắm giữ các quyền này. Do đặc thù về mô hình tổ chức quyền lực, Quốc hội Việt Nam vẫn là “cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất”. Vì vậy, để phù hợp với tính phổ quát của Nhà nước pháp quyền trong việc phân chia quyền lực, thì dù thống nhất ở gốc quyền lực, nhưng việc tổ chức thực hiện quyền lực cần được phân công chặt chẽ, phối hợp hiệu quả và kiểm soát trong việc thực hiện quyền. Chủ thể cao nhất nhân danh sự ủy thác của Nhân dân thực hiện quyền phân công, điều phối việc phối hợp và thiết lập cơ chế kiểm soát thực hiện quyền chính là Quốc hội, cơ quan này thực hiện quyền thông qua nhiệm vụ “thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp”.

So sánh với Hiến pháp năm 2013, Nghị quyết số 27/NQ-TW đã làm rõ hơn các yêu cầu như “phân công rành mạch”, “phối hợp chặt chẽ” và “kiểm soát hiệu quả”. Những tính từ này vừa có mục đích nhấn mạnh, nhưng cũng là tiền đề chính trị, yêu cầu quan trọng cần đặc biệt lưu ý trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, việc kiểm soát thực hiện quyền lực vẫn đang là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu và là nhiệm vụ trọng tâm được xác định trong thời gian tới ở Việt Nam.

1.5. Hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán

Nói về Nhà nước pháp quyền, không thể không nhắc tới pháp luật; Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cũng không ngoại lệ. Pháp luật trong Nhà nước pháp quyền trước hết phải là các chuẩn mực pháp lý được làm ra bằng con đường dân chủ và là sản phẩm của ý chí đích thực của người dân. Theo Geofrey de Q. Walker, Nhà nước pháp quyền phải có tính phù hợp, có nghĩa là cần được xây dựng một cách dân chủ và nội dung của pháp luật phải phản ánh những quy tắc dân chủ cơ bản được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi. Bên cạnh đó, mục tiêu tối thượng của Nhà nước pháp quyền là công lý và quyền con người, nên chỉ có pháp luật dân chủ mới có thể bảo vệ được công lý và quyền con người, do tất cả đều nằm dưới sự ngự trị của pháp luật dân chủ, kể cả Nhà nước.

Bên cạnh yếu tố dân chủ, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải công bằng, nhân đạo. Đây cũng là các yêu cầu mang tính phổ quát về pháp luật trong Nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, có lẽ, từ định hướng phát triển của Việt Nam, tính công bằng và nhân đạo có mục tiêu hướng tới sự công bằng hơn trong tiếp cận nguồn lực xã hội, trong thụ hưởng thành quả phát triển của đất nước, đặc biệt là đối với các nhóm yếu thế, những người lao động.

Việt Nam đang trong tiến trình đổi mới, cải cách, hội nhập với nhiều thay đổi nhanh chóng, nên yêu cầu về một nền pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán cũng là những yêu cầu cần thiết cho nền pháp luật trong điều kiện đặc thù của Việt Nam. Vì vậy, đây không chỉ là đặc trưng của pháp luật, mà còn là yêu cầu tiên quyết cần đặt ra trong việc hoàn thiện pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới.

1.6. Độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử; Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Độc lập tư pháp là một trong những đặc điểm cơ bản của Nhà nước pháp quyền. Bởi lẽ, Tòa án luôn được coi là “chiếc khiên” vững chắc để bảo vệ công lý, quyền con người và tính tối thượng của pháp luật. Tư pháp không độc lập thì không thể bảo vệ được pháp luật, công lý và quyền con người, những điều cơ bản này không được bảo vệ thì không có pháp quyền.

Để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, tiếp tục hoàn thiện nền tư pháp phải là một trong những nhiệm vụ cấp bách. Hiện nay, các giải pháp và nhiệm vụ trọng tâm được Nghị quyết số 27/NQ-TW xác định đúng và trúng. Để Tòa án, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập thực sự, cần hàng loạt những cải cách xa hơn nữa, trong đó, với điều kiện của Việt Nam, trước hết, cần thiết kế, tổ chức hệ thống tư pháp sao cho bảo đảm sự độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử, tiến tới loại bỏ quan hệ hành chính giữa các cấp Tòa án với nhau. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là yêu cầu bắt buộc. Để có được sự độc lập thực sự, cần có hệ thống các bảo đảm về pháp lý, bảo đảm an ninh, an toàn cho cá nhân và người thân, bảo đảm về mức sống, bảo đảm về chính trị và các bảo đảm khác.

1.7. Tôn trọng và bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế

Đây cũng là đặc điểm mang tính phổ quát và đặc thù của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Pháp luật trong Nhà nước pháp quyền phải phù hợp với các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, có nhiều các chuẩn mực quốc tế không phù hợp với điều kiện văn hóa, kinh tế, chính trị và định hướng phát triển của Việt Nam. Vì vậy, để bảo vệ chủ quyền quốc gia, chủ quyền nhân dân, đồng thời cũng thể hiện là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, Việt Nam tuân thủ và thực hiện các cam kết, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc bên cam kết. Điều này không trái với nguyên tắc chung đã được xác lập, bởi Nhân dân là chủ thể kiến tạo quyền lực và là chủ thể ủy thác, trao quyền thì các thiết chế quyền lực mới có cơ sở pháp lý thảo luận, đàm phán, gia nhập hay phê duyệt các điều ước quốc tế. Vì lẽ đó, các điều ước quốc tế không thể và không nên đi ngược lại với ý chí của Nhân dân, xâm phạm lợi ích của Nhân dân, của quốc gia, dân tộc. Đó là cơ sở pháp lý và cũng là yêu cầu cơ bản nhằm bảo đảm tính tối thượng của Hiến pháp - hiện thân của chủ quyền nhân dân.

Như vậy, trong xu thế hội nhập và khẳng định là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, Việt Nam thống nhất nhận thức đặc điểm của Nhà nước pháp quyền và cam kết tôn trọng, bảo đảm thực thi mọi điều ước quốc tế, nhưng với điều kiện những điều ước đó Việt Nam phải là thành viên và đồng thời bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc trên hết, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Điều này vừa phù hợp với chuẩn mực chung và nhất quán với quan điểm về Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, tính tối thượng của Hiến pháp (hiện thân rõ nhất của chủ quyền nhân dân) như là đặc điểm cơ bản và phổ quát của Nhà nước pháp quyền nói chung.

2. Khuyến nghị và kết luận

Nghị quyết số 27/NQ-TW ra đời là minh chứng cho những nỗ lực và quyết tâm lớn của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN vừa có tính phổ quát lại vừa có tính đặc thù, phù hợp với điều kiện văn hóa, kinh tế, chính trị và xã hội của Việt Nam. Những đặc thù của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam không xung đột với tính phổ biến mà ở nhiều khía cạnh, theo quan điểm và đánh giá của tác giả, là nhân văn và khắc phục được một số vấn đề của lý thuyết về Nhà nước pháp quyền khi vận dụng vào điều kiện và xã hội cụ thể. Có thể kể đến những vấn đề liên quan đến xây dựng và thực hiện pháp luật trong điều kiện bình đẳng về trao quyền, nhưng bất bình đẳng trong điều kiện bảo đảm thực hiện quyền. Hay ở khía cạnh khác, cách tiếp cận quyền con người từ góc độ văn hóa, hệ giá trị cũng tạo ra sự khác biệt trong thực tiễn giữa các giá trị phương Tây và phương Đông, mà ở đó Việt Nam là một bộ phận. Ở góc độ này, nhận thức về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đã có những cách tiếp cận mới và phù hợp.

Để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, Nghị quyết số 27/NQ-TW đã xác định nhiều nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp đột phá. Ở góc độ lý luận, việc tiếp tục nghiên cứu về cơ chế, mô hình bảo vệ Hiến pháp là cần thiết, bởi sự tối thượng của pháp luật phụ thuộc nhiều vào sự tối thượng của Hiến pháp. Ngoài ra, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả trong điều kiện Việt Nam và phát huy dân chủ XHCN trong xã hội hiện đại vẫn tiếp tục là nhiệm vụ trọng tâm và quan trọng trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới.

TS. Mai Văn Thắng