Tăng cường vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong công tác thống kê liên ngành
Ngày đăng : 08:00, 18/05/2023
1. Cơ sở pháp lý và nội dung của công tác thống kê liên ngành
1.1. Thống kê hình sự liên ngành
Công tác thống kê hình sự liên ngành được thực hiện từ năm 2005 theo Thông tư liên tịch số 01/2005/TTLT-VKSTC-TATC-BCA-BQP ngày 01/7/2005 của liên ngành trung ương hướng dẫn thi hành một số quy định của pháp luật trong công tác thống kê hình sự, thống kê tội phạm (Thông tư liên tịch số 01/2005). Điều 34 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) năm 2014 quy định rõ: “Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm chủ trì thống kê tội phạm, phối hợp với các cơ quan hữu quan trong việc thống kê hình sự. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan có liên quan có trách nhiệm phối hợp với VKSND trong việc thống kê tội phạm”.
Với vai trò là cơ quan chủ trì thống kê tội phạm, thống kê hình sự (gọi tắt là thống kê hình sự liên ngành), Cục thống kê tội phạm và công nghệ thông tin (Cục 2), VKSND tối cao đã phối hợp với các cơ quan có liên quan (Vụ tổng hợp, Tòa án nhân dân (TAND) tối cao, Cơ quan Cảnh sát điều tra và Văn phòng Bộ Công an, Viện kiểm sát quân sự trung ương do Bộ Quốc phòng ủy quyền) đã tham mưu cho lãnh đạo liên ngành Trung ương ban hành Thông tư liên tịch số 05/2018/TTLT-VKSTC-TATC-BCA-BQP ngày 12/11/2018 quy định phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện thống kê hình sự (Thông tư liên tịch số 05/2018) để thay thế Thông tư liên tịch số 01/2005. Thông tư liên tịch số 05/2018 quy định rõ về: (1) Trách nhiệm thực hiện việc lập, đối chiếu báo cáo tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố là thuộc cơ quan Công an, Quân đội các cấp, sau đó gửi báo cáo cho đơn vị được giao nhiệm vụ thống kê thuộc Viện kiểm sát cùng cấp để xây dựng báo cáo thống kê hình sự liên ngành (báo cáo tổng hợp chung); (2) Rút ngắn thời gian lập, đối chiếu, tổng hợp báo cáo thống kê hình sự liên ngành và quy định cụ thể thời gian cho từng cấp (cấp huyện là 03 ngày, cấp tỉnh và cấp cao là 06 ngày, VKSND tối cao là 08 ngày) để phù hợp với cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin trong tình hình mới; (3) Bổ sung các quy định về đối tượng thực hiện thống kê hình sự liên ngành, kinh phí hoạt động thống kê hình sự liên ngành, lưu trữ thống kê hình sự liên ngành các cấp, hiệu chỉnh số liệu trong báo cáo thống kê hình sự liên ngành, thành viên của Tổ giúp việc Ban chỉ đạo thống kê kê hình sự liên ngành các cấp; Ban chỉ đạo thống kê hình sự liên ngành trong Quân đội nhân dân. Phụ lục Danh mục chỉ tiêu thống kê hình sự liên ngành gồm 37 chỉ tiêu thống kê, trên cơ sở đó, Ban chỉ đạo thống kê hình sự liên ngành trung ương đã ban hành biểu mẫu và hướng dẫn biểu mẫu thống kê hình sự liên ngành, gồm có 325 tiêu chí thống kê, trong đó chia thành 05 mục theo các giai đoạn quy định Bộ luật Tố tụng hình sự nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động thu thập, tổng hợp, quản lý thông tin, số liệu thống kê..., cụ thể là: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; khởi tố, điều tra; kiểm sát điều tra và quyết định việc truy tố; xét xử; tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự...
1.2. Thống kê thi hành án dân sự và theo dõi thi hành án hành chính liên ngành
Ngày 31/5/2016, Bộ Tư pháp, VKSND tối cao, TAND tối cao đã ban hành Thông tư liên tịch số 06/2016/TTLT-BTP-VKSNDTC-TANDTC hướng dẫn phối hợp trong thống kê thi hành án dân sự. Qua gần 05 năm triển khai thực hiện cho thấy, có nhiều kết quả góp phần tạo chuyển biến tích cực trong công tác thi hành án dân sự, nhưng cũng còn nhiều hạn chế cần có biện pháp khắc phục. Vì vậy, ngày 29/12/2021, Bộ Tư pháp, VKSND tối cao, TAND tối cao đã ban hành Thông tư liên tịch số 12/2021/TTLT-BTP-VKSNDTC-TANDTC quy định về phối hợp trong thống kê thi hành án dân sự, theo dõi thi hành án hành chính liên ngành (Thông tư liên tịch số 12/2021). Thông tư liên tịch này quy định về việc phối hợp trong việc lập, ký xác nhận, tổng hợp số liệu và kiểm tra trong thống kê thi hành án dân sự, theo dõi thi hành án hành chính liên ngành. Trong đó, VKSND cấp huyện có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Chi cục Thi hành án dân sự và TAND cấp huyện; VKSND cấp tỉnh có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Cục Thi hành án dân sự và TAND cấp tỉnh lập báo cáo thống kê Biểu mẫu số 04/TKLN-THADS; các đơn vị chuyên môn của VKSND tối cao tổng hợp số liệu của Biểu mẫu số 04/TKLN-THADS gửi cho các cơ quan có trách nhiệm phối hợp và báo cáo lãnh đạo VKSND tối cao. Cục 2 VKSND tối cao có trách nhiệm hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc VKSND cấp dưới thực hiện; phối hợp với các cơ quan liên quan thuộc Bộ Tư pháp và TAND tối cao rà soát, đối chiếu, tổng hợp số liệu thống kê báo cáo các cơ quan có thẩm quyền về thống kê kết quả kiểm sát thi hành án dân sự, hành chính liên ngành.
2. Kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
2.1. Một số kết quả đạt được
Qua hơn 18 năm thực hiện, công tác thống kê hình sự liên ngành đã đạt được những kết quả rất quan trọng, ngành Kiểm sát nhân dân bảo đảm thực hiện tốt vai trò chủ trì trong thống kê tội phạm và phối hợp có hiệu quả với các cơ quan có liên quan trong thu thập, tổng hợp và xây dựng báo cáo thống kê hình sự liên ngành; độ tin cậy, tính chính xác của số liệu thống kê ngày càng được bảo đảm, cụ thể: Tính đến nay, đã xây dựng hoàn thành hơn 216 báo cáo thống kê kỳ tháng, 18 báo cáo thống kê kỳ 6 tháng, 18 báo cáo thống kê kỳ 12 tháng (năm)... Có thể nói, thông qua kết quả của công tác thống kê hình sự liên ngành, liên ngành tư pháp trung ương đã tạo lập được cơ sở dữ liệu tương đối đầy đủ về tình hình tội phạm trên phạm vi toàn quốc qua hằng tháng, 06 tháng và hằng năm. Từ cơ sở dữ liệu này, có thể thống kê được chính xác số lượng tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố xảy ra; số vụ án, bị can bị khởi tố, truy tố; số bị cáo bị xét xử, loại hình phạt, mức hình phạt áp dụng,...; thống kê được số liệu quan trọng để đánh giá tình hình tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự; phân tích được cơ cấu tội phạm, đặc điểm nhân thân của người phạm tội (tuổi, giới tính, dân tộc, nghề nghiệp, trình độ...); phản ánh được kết quả công tác, chất lượng, hiệu quả giải quyết các vụ án hình sự của mỗi cơ quan tiến hành tố tụng,...
Bên cạnh đó, gần 06 năm thực hiện Thông tư liên tịch số 12/2021, với sự nỗ lực, quyết liệt chỉ đạo của liên ngành trung ương, đã phát huy vai trò quan trọng trong thực tiễn công tác thống kê thi hành án dân sự và theo dõi thi hành án hành chính liên ngành, góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, bảo đảm sự thống nhất trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của từng ngành, tạo chuyển biến tích cực trong công tác thống kê này, đặc biệt là của các cơ quan hữu quan tại địa phương, nơi trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án.
Do vậy, công tác thống kê liên ngành ngày càng được khẳng định và đánh giá cao về vị trí, vai trò, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan thực thi pháp luật nói chung, cũng như trong hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm nói riêng; phục vụ đắc lực và ngày càng có hiệu quả cho lãnh đạo các cấp trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành; thông qua kết quả của công tác thống kê hình sự liên ngành đã phản ánh đầy đủ, khách quan, toàn diện về bức tranh toàn cảnh tình hình tội phạm hằng năm và theo từng giai đoạn. Nguồn số liệu thống kê liên ngành đã được các bộ, ngành (VKSND tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, TAND tối cao, Bộ Quốc phòng,...) thống nhất sử dụng trong xây dựng báo cáo trước các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Quốc hội...; từ đó, kịp thời kiến nghị, tham mưu cho Đảng, Nhà nước đề ra các chủ trương, giải pháp phòng, chống tội phạm và các lĩnh vực khác trong thụ lý, giải quyết các vụ án về dân sự, hành chính, kinh doanh thương mại... có hiệu quả.
Để đạt được những kết quả đó, trong thời gian qua, ngành Kiểm sát nhân dân đã thực hiện tốt vai trò chủ trì trong thống kê hình sự liên ngành, phối hợp chặt chẽ với cơ quan có liên quan trong hoạt động thu thập, cập nhật, tổng hợp, đối chiếu, so sánh, tiếp ký,... báo cáo thống kê liên ngành, trên các mặt chủ yếu sau:
(1) Sau khi kết thúc kỳ thống kê theo quy định, trên cơ sở hệ thống sổ nghiệp vụ và hồ sơ các vụ án, các công chức được giao nhiệm vụ thống kê của các bộ phận nghiệp vụ thuộc VKSND cấp huyện, phòng nghiệp vụ thuộc VKSND cấp tỉnh, các viện nghiệp vụ thuộc VKSND cấp cao; các đơn vị nghiệp vụ thuộc VKSND tối cao đã chủ động cập nhật số liệu vào các biểu mẫu trong phần mềm máy tính và lập báo cáo thống kê liên ngành, sau đó truyền, gửi về đơn vị thống kê chuyên trách thuộc cấp mình và cấp trên trực tiếp (bộ phận thống kê thuộc Văn phòng VKSND cấp huyện, bộ phận thống kê thuộc Văn phòng tổng hợp VKSND cấp tỉnh, bộ phận thống kê thuộc Văn phòng VKSND cấp cao); các đơn vị được giao nhiệm vụ thống kê chuyên trách thuộc VKSND các cấp có trách nhiệm tổng hợp số liệu thành báo cáo thống kê chung của cấp mình. Đối với hệ thống thống kê trong Quân đội, số liệu cũng được thu thập từ các đơn vị các cấp (khu vực, quân khu, quân đoàn,…), Viện kiểm sát quân sự trung ương có trách nhiệm tổng hợp, đối chiếu và tiếp ký số liệu với các đơn vị liên ngành và gửi số liệu thống kê về Cục 2 VKSND tối cao để tổng hợp thành báo cáo thống kê chung của toàn quốc. Việc cập nhật, tổng hợp, truyền gửi báo cáo thống kê của VKSND các cấp được thực hiện hoàn toàn tự động bằng phần mềm thống kê; phần mềm thống kê hình sự liên ngành của ngành Kiểm sát nhân dân còn cho phép lựa chọn số liệu theo thời gian, theo địa phương và theo cấp tố tụng,... cho phép kết nối tất cả các dữ liệu cần thống kê để tự động lập báo cáo thống kê hình sự liên ngành theo biểu mẫu chung.
(2) Công tác thu thập, tổng hợp số liệu thống kê hình sự, thống kê kiểm sát thi hành án dân sự và theo dõi thi hành án hành chính liên ngành của các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan liên quan các cấp được thực hiện nghiêm túc và đi vào nền nếp, tất cả các chỉ tiêu, tiêu chí thống kê đều được thu thập, cập nhật, tổng hợp theo một chế độ báo cáo thống nhất nên tính chính xác, trung thực của số liệu thống kê được bảo đảm.
(3) Công tác phối hợp đối chiếu, kiểm tra, tổng hợp... và tiếp ký báo cáo thống kê liên ngành: Về thống kê hình sự liên ngành, với tư cách là cơ quan chủ trì về thống kê hình sự liên ngành, hằng tháng, Viện kiểm sát các cấp chủ động hoàn thành việc lập báo cáo thống kê hình sự liên ngành theo quy định, đúng thời hạn và phối hợp chặt chẽ với ngành Công an (Cơ quan điều tra, Trại giam) và Tòa án các cấp tiến hành rà soát, đối chiếu chi tiết đến từng tiêu chí, chỉ tiêu thống kê và thống nhất số liệu trước khi trình lãnh đạo liên ngành ký ban hành. Trên cơ sở báo cáo thống kê hình sự liên ngành của các đơn vị gửi và truyền về VKSND tối cao, Cục 2 tiến hành tổng hợp, đối chiếu, tổng hợp, hoàn thiện báo cáo. Thông qua đó, góp phần nâng cao chất lượng số liệu thống kê của liên ngành nói chung và từng ngành nói riêng được chính xác; hệ thống sổ thụ lý, sổ nghiệp vụ của các cơ quan liên quan được ghi chép đầy đủ và quản lý tốt hơn, số liệu thống kê nội bộ mỗi ngành bảo đảm độ tin cậy cao hơn; khắc phục được tình trạng quên, bỏ sót các quyết định, văn bản tố tụng trong thụ lý, giải quyết các vụ án hình sự; nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ công tác thống kê và Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về hình sự. Công tác thống kê kiểm sát thi hành án dân sự, theo dõi thi hành án hành chính liên ngành đã bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất về số liệu thống kê từ trung ương đến địa phương, nâng cao chất lượng và hiệu quả.
(4) Việc gửi, sử dụng báo cáo thống kê liên ngành được thực hiện nghiêm túc, thống nhất và có hiệu quả: Định kỳ báo cáo, sau khi lãnh đạo VKSND tối cao ký ban hành báo cáo thống kê liên ngành, báo cáo sẽ được gửi đến các đơn vị có liên quan, các bộ, ngành để cùng khai thác, sử dụng chung. Ở trung ương, số liệu thống kê liên ngành được sử dụng thống nhất trong các báo cáo của Chính phủ (Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp), Viện trưởng VKSND tối cao, Chánh án TAND tối cao trước Quốc hội, các Ủy ban của Quốc hội (Ủy ban Tư pháp, Ủy ban Pháp luật,…), phục vụ các Đoàn giám sát của Quốc hội, các cơ quan Đảng (Ban Nội chính, Ủy ban Kiểm tra, Văn phòng Trung ương Đảng…) và phục vụ cho từng cơ quan (Bộ Công an, VKSND tối cao, TAND tối cao, Bộ Quốc phòng) trong việc xây dựng các kế hoạch, chương trình công tác và lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo, điều hành, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của đơn vị, bộ, ngành mình. Tương tự, ở địa phương, số liệu thống kê hình sự liên ngành cũng được sử dụng thống nhất để xây dựng các báo cáo, đánh giá kết quả công tác, xây dựng kế hoạch, chương trình công tác liên quan, phục vụ công tác của các cơ quan liên ngành ở địa phương và báo cáo chính quyền, cấp ủy, Hội đồng nhân dân cùng cấp. Ngoài ra, số liệu trong báo cáo thống kê hình sự liên ngành còn được cung cấp cho các cơ quan, đơn vị, các cơ sở đào tạo pháp lý, các cá nhân… để phục vụ cho việc xây dựng các báo cáo chuyên đề, nghiên cứu khoa học, sơ kết, tổng kết một số đạo luật về tư pháp, xây dựng chính sách pháp luật, phòng, chống tội phạm nói chung, tội phạm về tham nhũng, chức vụ nói riêng,... góp phần phục vụ xây dựng các chính sách, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội.
(5) Từ kết quả của báo cáo thống kê liên ngành, các bộ, ngành (Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, VKSND tối cao, TAND tối cao) sử dụng làm dữ liệu nguồn để xây dựng báo cáo thống kê chỉ tiêu thống kê quốc gia mà các bộ, ngành được phân công. Viện kiểm sát nhân dân đã thực hiện tốt thống kê 02 chỉ tiêu thống kê Quốc gia chịu trách nhiệm thực hiện, gồm: Số vụ án/bị can bị khởi tố và chỉ tiêu số vụ án/bị can bị truy tố gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư theo quy định của Luật thống kê năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2021.
(6) Việc đầu tư, mua sắm trang thiết bị, hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ công tác thống kê nói chung và thống kê hình sự liên ngành nói riêng thời gian qua đã được lãnh đạo VKSND tối cao và lãnh đạo Viện kiểm sát các cấp quan tâm, chú trọng; bảo đảm 100% cán bộ, công chức làm công tác thống kê trong ngành được trang bị 01 máy tính để phục vụ công tác; đầu tư xây dựng, hoàn thành Trung tâm tích hợp dữ liệu (đặt tại VKSND tối cao để quản lý), hệ thống các phần mềm ứng dụng dùng chung phục vụ công tác thống kê, đặc biệt là đã đầu tư xây dựng phần mềm phục vụ riêng cho công tác thống kê hình sự liên ngành, nên hiệu quả ngày càng được nâng cao, bảo đảm số liệu luôn chính xác và có độ tin cậy cao.
2.2. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực hiện công tác thống kê hình sự liên ngành thời gian qua còn một số tồn tại, hạn chế sau đây:
(1) Cách tính một số chỉ tiêu thống kê chưa thống nhất trong nội bộ từng ngành và giữa các ngành với cách tính của Viện kiểm sát. Ví dụ: Cơ quan điều tra thống kê lệnh bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh khám xét, quyết định khởi tố bị can,… đã được Cơ quan điều tra ban hành, trong khi đó, Viện kiểm sát chỉ thống kê các trường hợp luật quy định phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát thì mới thống kê; hoặc chỉ tiêu trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ,... thì ngành Toà án tính là số đã giải quyết, còn Viện kiểm sát không tính là số đã giải quyết,… dẫn đến một số tiêu chí, số liệu thống kê liên ngành chưa đồng bộ. Quy định về thời gian, thời điểm lập báo cáo và tiếp ký thống kê của các ngành hiện nay là khác nhau (ngành Công an thống kê tháng tính từ ngày 16 của tháng trước đến ngày 15 của tháng sau, còn ngành Kiểm sát và ngành Tòa án thì thống kê tháng tính từ ngày 01 đến ngày cuối cùng của tháng,…), nên khi đối chiếu số liệu mất rất nhiều thời gian để tính toán, thống nhất.
(2) Hoạt động thu thập, cập nhật, đối chiếu, kiểm tra, phân tích,… số liệu thống kê còn mang tính riêng rẽ và độc lập do mỗi ngành có một hệ thống, cách thức thu thập, phương pháp tính, báo cáo, quản lý riêng, thiếu tính thống nhất, nên khó bảo đảm tính đầy đủ và toàn diện. Công tác này chủ yếu dựa vào sổ thụ lý, sổ nghiệp vụ, trong khi đó việc ghi chép, cập nhật thông tin vào sổ thụ lý, sổ nghiệp vụ tại một số đơn vị, địa phương có thời điểm chưa đầy đủ, kịp thời, hiện tượng bỏ sót thông tin thống kê vẫn còn xảy ra.
Những tồn tại, hạn chế ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác thống kê nêu trên xuất phát từ những nguyên nhân sau đây:
(1) Lãnh đạo một số đơn vị, Viện kiểm sát địa phương chưa nhận thức đúng về vị trí, vai trò của công tác thống kê nói chung và công tác thống kê liên ngành nói riêng là một trong những công cụ quan trọng, hữu hiệu phục vụ công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, nên chưa có sự quan tâm đúng mức; việc bố trí, sắp xếp hệ thống tổ chức thực hiện nhiệm vụ thống kê của các ngành nói chung và của ngành Kiểm sát nói riêng chưa theo hướng chuyên trách hóa, cán bộ làm công tác thống kê chủ yếu là kiêm nhiệm trong khi nhiệm vụ thống kê hình sự, thống kê tội phạm do ngành Kiểm sát chủ trì. Mặt khác, việc bố trí cán bộ làm công tác thống kê ở một số đơn vị, địa phương chưa ổn định; có đơn vị bố trí cán bộ mới vào ngành làm công tác thống kê nên chưa có điều kiện tìm hiểu, đúc rút kinh nghiệm; ý thức trách nhiệm của một số cán bộ thống kê chưa cao…
(2) Một số cơ quan, đơn vị ở các địa phương chưa thật sự quan tâm đến công tác thống kê liên ngành; sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện công tác thống kê hình sự liên ngành mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng có lúc, có địa phương coi nhiệm vụ thống kê hình sự liên ngành là trách nhiệm riêng của ngành Kiểm sát, nên công tác này còn hạn chế, chưa chủ động tổng hợp số liệu để đối chiếu và xử lý những mâu thuẫn, chênh lệch về số liệu trước khi báo cáo lên cấp trên.
(3) Trong thời gian qua, liên ngành mới chỉ tập trung nhiều vào việc thu thập số liệu thống kê hình sự nói chung, mà chưa quan tâm đúng mức đến việc thu thập số liệu thống kê tội phạm (liên quan đến đặc điểm về nhân thân, nguyên nhân, điều kiện, động cơ, mục đích,... của người phạm tội). Công tác phân tích, đánh giá, phổ biến các thông tin thống kê liên ngành chưa được quy định chặt chẽ; chưa tổ chức thường xuyên các hội nghị phổ biến thông tin thống kê.
(4) Công tác chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra nghiệp vụ về công tác thống kê liên ngành chưa được đề cao; chưa tổ chức thành lập Đoàn kiểm tra liên ngành riêng để kiểm tra thường xuyên, chuyên sâu việc thực hiện công tác thống kê liên ngành tại các đơn vị, Viện kiểm sát địa phương.
(5) Việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ công tác thống kê liên ngành còn bất cập. Ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác thống kê hình sự liên ngành đã được thực hiện, nhưng nhìn chung vẫn còn hạn chế, các đơn vị khi cập nhật số liệu thống kê đều thực hiện bằng phương pháp thủ công là chủ yếu; chưa có phần mềm thống kê thi hành án dân sự, theo dõi thi hành án hành chính liên ngành. Hiện nay, mới chỉ áp dụng thực hiện phần mềm thống kê hình sự liên ngành trong nội bộ ngành Kiểm sát, mà chưa được đầu tư xây dựng và áp dụng thống nhất liên ngành để khai thác những tiện ích hiện đại của việc ứng dụng cổng thông tin; việc thống kê cơ sở (đầu vào) đang thực hiện theo phương pháp thủ công, phần mềm này chỉ có chức năng tổng hợp số liệu, kiểm tra lại số liệu do người làm thống kê cập nhật, mà chưa tự động kết nối liên thông với các đơn vị, bộ, ngành trong hoạt động thu thập, cập nhật, kiểm tra, đối chiếu hoặc tiếp ký điện tử, cũng như khai thác, sử dụng, chia sẻ số liệu thống kê khi có nhu cầu.
(6) Chưa tổ chức thường xuyên các đợt tập huấn, mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ chuyên trách thực hiện công tác thống kê liên ngành ở các cấp.
3. Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong công tác thống kê liên ngành
Để nâng cao hơn nữa vai trò, trách nhiệm của VKSND trong công tác thống kê liên ngành, cần thực hiện có hiệu quả các giải pháp chủ yếu sau đây:
Một là, nâng cao nhận thức, tạo sự chuyển biến trong nhận thức về tầm quan trọng của công tác thống kê liên ngành; nhận thức đúng vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác thống kê trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi ngành; coi thống kê là một trong những công cụ quản lý hữu hiệu không thể thiếu để cung cấp đầy đủ các số liệu, thông tin trung thực, khách quan, chính xác và kịp thời phục vụ cho hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành và còn là cơ sở, kênh thông tin quan trọng dự báo, hoạch định chiến lược, chính sách đúng đắn, phù hợp.
Hai là, nghiên cứu, đổi mới hệ thống chỉ tiêu, chế độ báo cáo thống kê của ngành Kiểm sát nhân dân. Với vai trò là cơ quan chủ trì về thống kê hình sự, thống kê tội phạm; phối hợp trong thống kê thi hành án dân sự, theo dõi thi hành án hành chính liên ngành, Cục 2 VKSND tối cao chủ động nghiên cứu, tổ chức họp liên ngành để kịp thời sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu, biểu mẫu và hướng dẫn thống kê liên ngành thuộc trách nhiệm của ngành theo hướng: Kịp thời bổ sung các chỉ tiêu, tiêu chí thống kê xét thấy còn thiếu hoặc không đầy đủ do yêu cầu của thực tiễn đặt ra hiện nay và hướng dẫn thống nhất cách tính, phương pháp tính đối với một số chỉ tiêu, tiêu chí thống kê mà các bộ, ngành còn có cách tính, phương pháp tính khác nhau nhằm thống nhất về số liệu thống kê. Thủ trưởng các đơn vị thuộc VKSND tối cao, lãnh đạo VKSND các cấp chỉ đạo tiến hành rà soát toàn bộ hệ thống chỉ tiêu thống kê và hệ thống các tiêu chí thống kê tại các biểu mẫu thống kê hiện hành; xây dựng báo cáo đánh giá việc thực hiện chế độ báo cáo thống kê hiện hành, đề xuất thu gọn các chỉ tiêu thống kê, giảm bớt số tiêu chí thống kê ít sử dụng hoặc trùng lắp trong từng biểu mẫu, đồng thời bổ sung các chỉ tiêu, tiêu chí thống kê mới.
Ba là, tăng cường chuyển đổi số trong công tác thống kê. Thủ trưởng các đơn vị, Viện trưởng VKSND các cấp căn cứ Chỉ thị số 03/CT-VKSTC ngày 17/5/2021 của Viện trưởng VKSND tối cao về tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, thúc đẩy chuyển đổi số trong ngành Kiểm sát nhân dân, tổ chức triển khai thực hiện việc chuyển đổi số trong công tác thống kê tại đơn vị mình theo đúng lộ trình, kế hoạch đã được phê duyệt. Trước mắt, cần tập trung đầu tư, hoàn thiện và triển khai trong toàn ngành về thực hiện sổ thụ lý điện tử, tiến tới thay cho các sổ thụ lý giấy và thực hiện báo cáo thống kê tự động; siết chặt kỷ luật công vụ trong việc nhập thông tin, dữ liệu vào các phần mềm phục vụ công tác thống kê; tăng cường trách nhiệm của lãnh đạo các đơn vị trong nghiên cứu, đề ra các bài toán, yêu cầu quản lý, phối hợp khảo sát thực tiễn, xây dựng, kiểm thử phần mềm.
Bốn là, thực hiện chiến lược phát triển thống kê quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 trong ngành Kiểm sát nhân dân, trọng tâm là đổi mới, hiện đại hóa hoạt động thu thập, xử lý và quản trị dữ liệu; hệ thống hóa dữ liệu thống kê, nâng cao chất lượng quản trị dữ liệu. Trước mắt, Cục 2 VKSND tối cao tiến hành rà soát để hệ thống hóa lại toàn bộ dữ liệu thống kê đến thời điểm hiện nay, bao gồm toàn bộ dữ liệu (cả dữ liệu đã in lưu và dữ liệu trong phần mềm) của từng năm, từng biểu mẫu, phần mềm đi kèm. Viện kiểm sát các cấp tiến hành rà soát để hệ thống hóa đầy đủ nhất có thể, sau đó lưu trữ thành hệ thống bảo đảm thuận tiện trong việc quản trị dữ liệu và khai thác dữ liệu; biên soạn thông tin thống kê theo từng năm, phổ biến thông tin thống kê qua hình thức cung cấp cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng, hướng tới cung cấp thông tin, số liệu thống kê bằng dữ liệu điện tử thông qua môi trường số.
Năm là, lãnh đạo Viện kiểm sát các cấp cần quan tâm đúng mức đến công tác thống kê nói chung và thống kê liên ngành nói riêng; bố trí, sắp xếp những người có đủ năng lực, trình độ, kinh nghiệm để thực hiện nhiệm vụ này; quan tâm, tạo điều kiện cho người làm công tác thống kê được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao trình độ, năng lực; sử dụng cán bộ theo hướng chuyên môn hóa, từng bước có chính sách hỗ trợ thoả đáng để họ an tâm công tác, thực hiện nhiệm vụ. Ngoài các lớp bồi dưỡng, tập huấn do VKSND tối cao tổ chức, thì mỗi công chức, viên chức cần nâng cao ý thức tự nghiên cứu, học tập, tìm hiểu kiến thức về thống kê qua nhiều kênh thông tin, từ đó chắt lọc những kiến thức bổ ích, thiết thực phục vụ cho công tác. Bên cạnh đó, VKSND các cấp phải chủ động liên hệ với các đơn vị liên quan của địa phương để cử công chức tham gia các khóa tập huấn do địa phương tổ chức.
Sáu là, bố trí đủ kinh phí cho việc triển khai, duy trì, bảo đảm các hoạt động của công tác thống kê hình sự được thông suốt, hiệu quả; trọng tâm là bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị, hạ tầng công nghệ thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ thiết thực cho công tác thống kê liên ngành, trong đó giải pháp đột phá là xây dựng phần mềm dùng chung phục vụ công tác thống kê liên ngành, mục tiêu là các bộ, ngành liên quan được kết nối liên thông qua trục tích hợp dữ liệu; cấp quyền, phân quyền truy cập, cập nhật, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, kiểm tra, phân tích, kết xuất báo cáo thống kê, tiếp ký, khai thác số liệu trên môi trường số. Đồng thời, phần mềm dùng chung này còn được kết nối liên thông với phần mềm sổ thụ lý điện tử (gồm cả lĩnh vực hình sự và dân sự, hành chính, thi hành án...), để thực hiện việc kết xuất báo cáo thống kê liên ngành tự động.
Bảy là, việc nâng cao chất lượng, vai trò của công tác thống kê liên ngành phải gắn với việc thường xuyên kiểm tra tiến độ, kết quả thực hiện và tiến hành sơ kết, tổng kết công tác thống kê liên ngành của từng bộ, ngành và của liên ngành. Qua công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết, cần kịp thời phát hiện những hạn chế, bất cập để khắc phục; sửa đổi, bổ sung quy định, quy chế để đáp ứng được yêu cầu của hoạt động thực tiễn. Đồng thời, đúc rút kinh nghiệm, những sáng kiến hay, phương pháp tốt... và có chế độ khen thưởng, biểu dương đối với những cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc; kịp thời nhắc nhở những đơn vị, cá nhân thực hiện chưa hiệu quả, thiếu trách nhiệm trong thực hiện công tác thống kê liên ngành.
Tám là, tăng cường phối hợp trong công tác thống kê, trong đó cần tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả thống kê liên ngành; tổ chức thực hiện đầy đủ, kịp thời và thống nhất quy định của các thông tư liên tịch; phát huy tốt vai trò của Trưởng ban Ban chỉ đạo và Tổ trưởng Tổ giúp việc thống kê hình sự liên ngành; trách nhiệm của ngành Kiểm sát trong thống kê thi hành án dân sự, theo dõi thi hành án hành chính liên ngành; chủ động phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên ngành cùng cấp trong hoạt động lập, đối chiếu và gửi báo cáo thống kê theo quy định; bảo đảm tính chính xác của số liệu thống kê đã đối chiếu.
Chín là, tăng cường hợp tác trong và ngoài nước về công tác thống kê: Đẩy mạnh việc nghiên cứu, học tập, trao đổi kinh nghiệm quản lý công tác thống kê và kinh nghiệm của một số nước tiên tiến trên thế giới nhằm xây dựng kế hoạch, chương trình hợp tác quốc tế theo hướng mở rộng, tăng cường trao đổi thông tin, hỗ trợ ngành Kiểm sát nhân dân trong công tác thống kê, chuyển đổi số trong công tác thống kê để tiếp cận công nghệ mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả khâu công tác này.