Vũng Tàu: Đề nghị giải quyết theo thủ tục phúc thẩm vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ và tranh chấp QSDĐ
Ngày đăng : 14:45, 19/04/2023
Nội dung vụ án
Được biết, đây là vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tranh chấp quyền sử dụng đất”, trong đó nguyên đơn là bà Phạm Thị Minh Hiền (cư trú tại số 11A Phan Chu Trinh, phường 2, TP Vũng Tàu); bị đơn là ông Lê Văn Hoàng; Trần Văn Nghiệp và bà Đào Thị Ngọt.
Khu đất có một phần diện tích đất tranh chấp trong vụ án |
Theo hồ sơ vụ án, ngày 18/11/2008, vợ chồng ông Hoàng bán toàn bộ 115m2 đất nông nghiệp cho vợ chồng ông Nguyễn Tâm Long. Ngày 04/5/2009, vợ chồng ông Long chuyển đổi 115m2 đất nông nghiệp thành đất ở và đến ngày 14/5/2009 đã chuyển nhượng diện tích đất trên cho ông Khuất Mạnh Vũ. Ngày 11/7/2009, bà Hiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng 115m2 đất thổ cư tại địa chỉ số 11A Phan Chu Trinh (nơi bà đang ở hiện tại), tại Văn phòng công chứng số 3 (TP Vũng Tàu) từ vợ chồng ông Khuất Mạnh Vũ theo hợp đồng chuyển nhượng số 1145 ngày 11/7/2009.
Ngày 13/08/2019, ông Lê Văn Hoàng tự ý bán diện tích đất đang ở (ông Hoàng cho là 15m2 nhưng thực tế đo vẽ là 18,7m2) cho bà Đào Thị Ngọt (em vợ ông Hoàng) bằng giấy viết tay.
Theo ông Hoàng, trước đây vợ chồng ông là chủ đất, năm 2008 vợ chồng ông chuyển nhượng 100m2 thửa đất này, để lại 15m2 để ở. Gia đình ông đã xây nhà có tường tách biệt phần đã bán với phần còn lại cho đến nay. Do diện tích còn lại 15m2 (nhỏ hơn 36m2) nên không thể tách thửa.
Do vậy, khi kí hợp đồng chuyển nhượng cho vợ chồng ông Long, ông Hoàng buộc phải chuyển nhượng toàn bộ 115m2. Từ sự việc này, dẫn đến tranh chấp một phần diện tích đất trong khu đất; sự việc được đưa ra TAND TP Vũng Tàu giải quyết.
Nguyên đơn kháng cáo, đề nghị giải quyết theo thủ tục phúc thẩm
Trong Bản án sơ thẩm số 91/2022/DS-ST ngày 30/9/2022 của TAND TP Vũng Tàu đã tuyên chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; tuy nhiên, TAND TP Vũng Tàu lại giảm phần diện tích đất trong GCNQSDĐ đứng tên nguyên đơn này từ 115m2 xuống còn 100m2 và công nhận 15m2 đất trong giấy CNQSDD thuộc về bị đơn. Không đồng tình với nội dung này, bà Hiền đã làm đơn kháng cáo, đề nghị giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
Bà Hiền cho rằng, Bản án sơ thẩm số 91/2022/DS-ST ngày 30/9/2022 là chưa thỏa đáng. Đó là việc Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 129, Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 129 được áp dụng khi có vi phạm về mặt hình thức nhưng đã đảm bảo thực hiện 2/3 nghĩa vụ đối với chủ đất là chủ sở hữu, sử dụng đất hợp pháp. Theo bà Hiền, trong trường hợp này đất được cấp cho bà một cách hợp pháp; ông Hoàng (bị đơn) không phải là chủ đất nên không có quyền bán đất cho bà Ngọt, vì vậy, không thể công nhận hợp đồng mua bán viết tay giữa ông Hoàng và bà Ngọt để mua bán một phần diện tích đất trong GCNQSDĐ của bà Hiền.
Bà Hiền cũng cho rằng, việc Tòa án chấp nhận cho những người làm chứng là người thân thích với đương sự (ông Hoàng và bà Ngọt) trong vụ án là không khách quan theo quy định của pháp luật.
Một nội dung khác mà bà Hiền kháng cáo, đó việc thu thập chứng cứ của Tòa án. Cụ thể, việc thu thập chứng cứ tại địa chỉ của ông Hoàng (bị đơn) ở số 11B/2 Phan Chu Trinh, phường 2, TP Vũng Tàu là không chính xác vì đây không phải là địa chỉ hợp pháp, số nhà này do bị đơn tự ý gắn lên không được chính quyền địa phương công nhận (cơ quan chức năng sau đó đã xác định phần đất tranh chấp giữa bà Hiền và ông Hoàng có gắn số 11B/2 là số nhà không được UBND TP cấp mà do ông Hoàng tự ý gắn vào nên đã gỡ bỏ). Do vậy đã dẫn đến việc xác định sai vị trí đất tranh chấp (lúc đầu là địa chỉ số 11B/2 Phan Chu Trinh (thực tế nhà ông Lê Văn Hoãn); sau này là số 11B Phan Chu Trinh (địa chỉ nhà bà Ngọt)). Sau này mới xác định đúng vị trí tranh chấp là số 11A Phan Chu Trinh...
Trao đổi về vụ án này, Luật sư Trần Minh Hùng, Đoàn luật sư TP HCM cho rằng, bản án sơ thẩm của TAND TP Vũng Tàu có nhiều sai sót, vi phạm cả về thủ tục tố tụng cũng như nội dung vụ án: Người làm chứng trong vụ án lại có quan hệ thân thích với bị đơn; xác minh sai đối tượng, xác minh sai quan hệ tranh chấp; một số chứng cứ có trong vụ án cần phải làm rõ như: Không có chứng cứ gốc, chỉ có bản xác nhận (bị đơn khai đã mất); ông Hoàng không phải chủ đất, không đáp ứng đủ điều kiện ký hợp đồng mua bán theo theo Quy định tại Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015 nhưng lại có hợp đồng mua bán giữa ông Hoàng, bà Ngọt ký lại năm 2019. Trong khi bà Hiền mua bán hợp lệ diện tích đất 115m2, đóng lệ phí trước bạ, phí nhà đất hàng năm đều đóng trên 115m2 từ 14 năm nay, và thực tế đã được cấp GCNQSDĐ, tuy nhiên Tòa án lại công nhận phần 15m2 cho ông Hoàng, bà Ngọt là chưa chính xác.