VKSND tỉnh Quảng Nam kháng nghị phúc thẩm vụ án yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng, chứng thực vô hiệu và yêu cầu hủy quyết định cá biệt
Ngày đăng : 19:43, 08/04/2023
Nội dung vụ án
Cụ Lê Thưởng và Nguyễn Thị Thơ (chết năm 2005, không để lại di chúc) tạo lập được thửa đất 422m2 và nhà trên đất tại tờ bản đồ số 9. Hai cụ có 06 người con, gồm ông/bà: Lê Mậu, Lê Tú, Lê Em, Lê Hồng Phong, Lê Thị Lưu, Lê Thị Hoàng.
Ngày 07/5/2009, ông Lê Tú đã lập Văn bản phân chia thừa kế có nội dung, giao cho ông Lê Tú toàn quyền sử dụng, định đoạt đối với di sản là nhà, đất nêu trên, được UBND xã Cẩm Hà, TP Hội An, tỉnh Quảng Nam chứng thực. Nhưng ông Lê Tú đã giả mạo chữ ký của ông Lê Em và ông Lê Hồng Phong. Bà Lê Thị Hoàng ký thay cho bà Lê Thị Lưu vào biên bản phân chia thừa kế để ông Lê Tú đã được hưởng toàn bộ di sản thừa kế do cha mẹ ông để lại.
Ngày 07/8/2009, ông Lê Tú được UBND TP Hội An, tỉnh Quảng Nam cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) đối với thửa đất 408, tờ bản đồ số 9, diện tích 422m2 (đất ở nông thôn). Sau đó ông Lê Tú đã làm thủ tục tách thửa và chuyển nhượng quyền sử dụng đất, cụ thể:
Ngày 21/11/2014, ông Lê Tú lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa 1198, diện tích 178,2m2 cho ông Lê Quang Nam và ông Nguyễn Quang Chung tại Phòng công chứng số 2. Ngày 03/12/2014, ông Lê Quang Nam và ông Nguyễn Quang Chung đã được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai TP Hội An chỉnh lý sang tên.
Ngày 05/10/2016, ông Lê Tú lập Hợp đồng chuyển nhưng quyền sử dụng đất đối với thửa 1208, diện tích 99,1m2 cho ông Lê Quang Nam tại Phòng công chứng số 2. Ngày 13/10/2016, ông Lê Quang Nam đã được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai TP Hội An chỉnh lý sang tên.
Ông Lê Em khởi kiện yêu cầu hủy Văn bản phân chia di sản thừa kế, hủy GCNQSDĐ đã cấp cho ông Lê Tú, hủy các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hủy chỉnh lý biến động sang tên ông Nam, ông Chung và hủy chỉnh lý biến động sang tên ông Nam như đã nêu trên.
Với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, ông Lê Quang Nam và ông Nguyễn Quang Chung đề nghị TAND bảo vệ quyền lợi vì các ông nhận quyển nhượng quyền sử dụng đất là hợp pháp.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 51/2021/DS-ST ngày 24/9/2021, TAND tỉnh Quảng Nam quyết định:
“1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Em về việc: Tuyên bố Văn bản phân chia tài sản thừa kế số chứng thực 121, quyển số 02/09 TP/SCT/HĐGD do UBND xã Cẩm Hà, TP Hội An, tỉnh Quảng Nam chứng thực ngày 07/5/2009 bị vô hiệu; Hủy GCNQSDĐ số AQ 085646 do UBND TP Hội An, tỉnh Quảng Nam cấp ngày 07/8/2009 cho ông Lê Tú đối với diện tích đất còn lại 144,7m, tại thửa đất số 408, tờ bản đồ số 9, thôn Trà Quế, xã cẩm Hà”.
“2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Lê Em đối với các nội dung: Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Lê Tú và ông Nguyễn Quang Chung, ông Lê Quang Nam đối với thửa đất số 1198, tờ bản đồ số 13 vô hiệu: Hủy GCNQSDĐ số BT 697477 cấp ngày 13/11/2014 cho ông Lê Tú; Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Lê Tú và ông Lê Quang Nam đối với thửa đất số 1208, tờ bản đồ số 13 vô hiệu; Hủy GCNQSDĐ số CC 909561 do Sở TN&MT tỉnh Quảng Nam cấp ngày 29/8/2016 cho ông Lê Tú; Hủy đăng ký chỉnh lý biến động quyền sử dụng đất ngày 03/12/2014 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Hội An sang tên ông Nguyễn Quang Chung và Ông Lê Quang Nam; Hủy đăng ký chỉnh lý biến động quyền sử dụng đất ngày 13/10/2016 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Hội An sang tên ông Lê Quang Nam.
Thông báo của VKSND cấp cao tại Đà Nẵng |
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
Ngày 05/10/2021, VKSND tỉnh Quảng Nam ban hành kháng nghị phúc thẩm do xác định bản án có một số thiếu sót, vi phạm:
Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định Văn bản phân chia tài sản thừa kế số chứng thực 121, quyển số 02/09 TP/SCT/HĐGD do UBND xã Cẩm Hà, TP Hội An, tỉnh Quảng Nam chứng thực ngày 07/5/2009 bị vô hiệu là đúng quy định tại Điều 122, Điều 127 BLDS năm 2005, bởi vì ông Lê Tú đã giả chữ ký của ông Lê Em và ông Lê Hồng Phong và UBND xã chứng thực khi không có mặt và không phải chữ ký của ông Lê Em, ông Lê Hồng Phong là không đúng quy định của pháp luật.
Về Hợp đồng chuyển nhượng đối với thửa đất 1198, diện tích 178,2m của ông Lê Tú cho ông Lê Quang Nam và ông Nguyễn Quang Chung ngày 21/11/2014 và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa 1208, diện tích 99,1m ngày 05/10/2016 của ông Lê Tú cho ông Lê Quang Nam, mặc dù các thửa đất này đã được chỉnh lý biến động sang tên ông Nam và ông Chung, nhưng các hợp đồng chuyển nhượng không đúng quy định của pháp luật và không thuộc trường hợp ngay tình được pháp luật bảo vệ bởi vì:
- Ông Lê Tú đã giả chữ ký của ông Lê Em và ông Lê Hồng Phong để lập Văn bản phân chia di sản thừa kế ngày 7/5/2009 và Văn bản này đã bị vô hiệu nên các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cũng bị vô hiệu theo khoản 2 Điều 138 BLDS 2005;
- Việc chuyển nhượng các thửa đất giữa ông Lê Tú với ông Lê Quang Nam, ông Nguyễn Quang Chung chưa hoàn thành. Các bên chưa giao tài sản cho nhau. Ông Nam và ông Chung cũng chưa giao đủ tiền nhận chuyển nhượng thửa đất cho ông Lê Tú. Tại phiên toà phúc thẩm ngày 23/2/2022, ông Nam và ông Chung khai thửa đất 1198 mua với giá 623.700.000 đồng, nhưng ông Chung và ông Nam chỉ mới đưa tiền cọc là 190.000.000 đồng cho ông Lê Tú;
- Sau khi xảy ra tranh chấp, ông Lê Tú đã trả lại số tiền 190.000.000₫ cho ông Nam và ông Chung. Ông Nam và ông Chung đã nhận lại số tiền này nên các bên chưa bàn giao tài sản cho nhau, chưa trả tiền từ năm 2014 đến nay. Nhà đất vẫn do bà Liền (vợ ông Tú) quản lý, sử dụng:
- Khi ông Lê Tú chuyển nhượng các thửa đất này, bà Nguyễn Thị Liền là vợ ông Lê Tú, nhưng bà Liền không biết việc chuyển nhượng và bà Liền cũng không ký vào bất cứ giấy tờ chuyển nhượng và không nhận được khoản tiền từ việc chuyển nhượng đổi là vi phạm Điều 109 Bộ luật dân sự năm 2005;
- Trên thửa đất 1198 ông Lê Tú chuyển nhượng cho ông Lê Quang Nam và Nguyễn Quang Chung có ngôi nhà cấp 4 do cha mẹ là ông Lê Thưởng và bà Nguyễn Thị Thơ để lại, quá trình sinh sống bà Nguyễn Thị Liền có xây dựng thêm khu vệ sinh và sân để phục vụ sinh hoạt, nhưng khi chuyển nhượng các bên chỉ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, không đề cập đến tài sản trên đất là ảnh hưởng đến quyền lợi của những người thừa kế tài sản và bản ăn cũng không thể thi hành án được;
- Tại phiên toà phúc thẩm ngày 23/2/2022, ông Nam và ông Chung còn khai khi nhận chuyển nhượng thửa đất thứ nhất (thửa 1198), các ông biết có nhà trên đất nên không giao mặt bằng được. Ông Lê Tú và ông Nam, ông Chung mới thực hiện chuyển nhượng thửa đất thứ hai (thửa 1208) để thay thế thửa đất thứ nhất. Do đỏ, việc chuyển nhượng đối với thửa đất 1208 là giả tạo nên bị vô hiệu theo quy định tại Điều 129 BLDS năm 2005.
Như vậy, việc chuyển nhượng các thửa đất giữa ông Lê Tú với ông Lê Quang Nam và Nguyễn Quang Chung đối với 02 thửa đất đều bị vô hiệu, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại áp dụng khoản 2 điều 133 BLDS 2015 để xác định Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Lê Tú với các ông Lê Quang Nam, Nguyễn Quang Chung ngày 21/11/2014 và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Lê Tú với các ông Lê Quang Nam ngày 05/10/2016 là ngay tình và không tuyên vô hiệu đối với 02 hợp đồng này; không tuyên hủy các GCNQSDĐ; không hủy chỉnh lý biến động sang tên cho ông Nam, ông Chung và ông Nam là không đúng quy định của pháp luật.
Mặt khác, tòa án cấp sơ thẩm áp dụng khoản 2 điều 133 BLDS 2015 để giải quyết vụ án cũng không đúng vì thời điểm các bên chuyển nhượng, BLDS 2005 đang có hiệu lực nên phải áp dụng Điều 129 và khoản 2 Điều 138 BLDS 2005 để giải quyết mới dùng quy định của pháp luật.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 59/2022/DS-PT ngày 09/3/2022 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng, quyết định: “Chấp nhận kháng nghị số 22/QĐKNPT-VKS- DS ngày 05/10/2021 của Viện trưởng VKSND tỉnh Quảng Nam và kháng cáo của ông Lê Em, sửa bản án sơ thẩm...”.
Trong vụ án này, VKSND tỉnh Quảng Nam đã thực hiện tốt công tác kháng nghị phúc thẩm, được TAND cấp cao tại Đà Nẵng chấp nhận. VKSND cấp cao tại Đà Nẵng thông báo đến Viện kiểm sát các tỉnh, thành trong khu vực tham khảo và rút kinh nghiệm.