Bàn về những dấu hiệu tội phạm trong quy định tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố

Ngày đăng : 07:29, 10/02/2023

(Kiemsat.vn) - Theo tác giả - Trung tá Nguyễn Thanh Quang, phòng CSHS Công an tỉnh Đồng Nai, cần quy định rõ “thông tin có dấu hiệu tội phạm là thông tin về hành vi giống hành vi mô tả trong ít nhất một điều luật quy định về tội phạm cụ thể” trong Bộ luật Hình sự hiện hành, giúp việc tố giác tập trung, có chọn lọc thể hiện rõ hành vi khách quan để cơ quan có thẩm quyền đánh giá việc tố giác, báo tin tội phạm và kiến nghị khởi tố có đúng hay không.

Công tác tiếp nhận, giải quyết nguồn tin tội phạm là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng hình sự xử lý tội phạm. Đây là giai đoạn phát hiện tội phạm và mở hồ sơ điều tra làm rõ có hay không vụ án hình sự làm tiền đề áp dụng các biện pháp điều tra được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự và hoạt động nghiệp vụ điều tra trinh sát của lực lượng Công an nhân dân để điều tra, thu thập tài liệu chứng cứ xử lý tội phạm. Có thể nói đây là khâu đầu tiên nhưng giữ vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án. Nếu làm tốt giai đoạn này giúp kịp thời phát hiện tội phạm, thu giữ tài liệu chứng cứ xử lý triệt để tội phạm. Ngược lại những thiếu sót ở giai đoạn này sẽ tác động lớn đến toàn bộ quá trình điều tra, thu thập chứng cứ, bắt giữ xử lý tội phạm. Thậm chí có những thiếu sót không thể khắc phục làm chứng cứ mất mát, hư hỏng, kẻ phạm tội tiếp tục phạm tội, lẩn trốn sống nhơn nhơ gây bức xức quần chúng nhân dân, làm giảm lòng tin vào công bằng pháp luật.

Một trong những nguyên nhân dẫn đến bỏ lọt, thiếu sót trong giai đoạn tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là vấn đề xác định dấu hiệu tội phạm trong tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Việc đánh giá ngay từ ban đầu có hay không có dấu hiệu tội trong là căn cứ để các cơ quan có thầm quyền tiếp nhận hay không tiếp nhận, giải quyết. Bên cạnh đó việc xác định dấu hiệu tội phạm nào, mức độ khẩn cấp, nghiêm trọng của dấu hiệu tội phạm cũng là căn cứ để cơ quan có thẩm quyền lựa chọn biện pháp can thiệp, ngăn chặn, điều tra xử lý phù hợp đảm bảo hạn chế mức thấp nhất hậu quả tội phạm gây ra, kịp thời phát hiện, thu thập tài liệu chứng cứ, truy bắt người phạm tội nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh tội phạm.

Qua 3 lần pháp điển hóa Bộ luật tố tụng hình sự, đến nay trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ( sửa đổi bổ sung năm 2021, sau đây gọi tắt là BLTTHS) vấn đề tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố được quy định cụ thể, chi tiết (từ Điều 144 đến Điều 150 BLTTHS). Dấu hiệu tội phạm là căn cứ tiếp nhận, giải quyết, khởi tố vụ án hình sự nhưng các quy định chưa nói rõ cụ thể về dấu hiệu tội phạm nhất là trong trong tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.

1. Dấu hiệu tội phạm trong khái niệm tố giác, báo tin tội phạm và kiến nghị khởi tố

Quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam

Theo Điều 84 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 thì “Công dân có thể tố giác tội phạm với cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án hoặc với các cơ quan khác của Nhà nước hoặc tổ chức xã hội. Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của người tố giác. Cơ quan hoặc tổ chức khi phát hiện hoặc nhận được tố giác của công dân phải báo tin ngay về tội phạm cho cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát bằng văn bản”. Trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 ngoài Điều 84 còn có Điều 86 quy định về thẩm quyền, cơ quan có trách nhiệm và thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Luật không đưa ra khái niệm cụ thể thế nào là tố giác,tin báo về tội phạm. Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 có 4 lần nhắc cụm từ “dấu hiệu tội phạm” nhưng cũng chưa khái niệm cụ thể thể nào là dấu hiệu tội phạm. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 cũng quy định tố giác, tin báo về tội phạm tại Điều 101 và Điều 103 và 8 lần nhắc cụm từ “dấu hiệu tội phạm”. Về cơ bản quy định về tố giác, tin báo về tội phạm 2 Bộ luật quy định tương đối giống nhau nhưng chưa đưa ra khái niệm cụ thể thế nào là tố giác, tin báo về tội phạm và thế nào là dấu hiệu tội phạm.

Để giải quyết vấn đề này, Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 02/8/2013 về Hướng dẫn thi hành quy định của Bộ luật tố tụng hình sự  năm 2003 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố có về khái niệm tố giác, tin báo về tội phạm; tại Điều 3 Thông tư liên tịch số 06/2013 đưa ra khái niệm “ Tố giác về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm do cá nhân có danh tính, địa chỉ rõ ràng cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết”, “Tin báo về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc do cơ quan, tổ chức cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết”,  “Kiến nghị khởi tố là việc các cơ quan nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ của mình phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm và có văn bản kiến nghị Cơ quan điều tra xem xét khởi tố vụ án hình sự”. Thông tư đưa ra khái niệm tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố để xác định là thông tin được cung cấp là thông tin có dấu hiệu tội phạm. Nhưng thế nào là dấu hiệu tội phạm thì chưa có giải thích cụ thể. Trong các Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và năm 2003 cũng như Thông tư liên tịch số 06/2013 TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC đều có các quy định về trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; nhưng căn cứ để khi nhận được thông tin tiến hành phân loại thụ lý hay không thụ lý giải quyết là nội dung thông tin có dấu hiệu tội phạm hay không có dấu hiệu tội phạm.

Theo Điều 144 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 khái niệm “tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền”; “Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng”; “Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị bằng văn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm”. Tại Điều 143 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về căn cứ khởi tố vụ án hình sự cũng quy định chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Như vậy, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đưa ra các khái niệm về tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đều là những thông tin có dấu hiệu tội phạm được cung cấp cho cơ quan có thảm quyền. Bộ luật tổng cộng có 18 lần nhắc đến cụm từ “dấu hiệu tội phạm” nhưng cũng chưa nói rõ để đi đến thống nhất để đánh giá thế nào là dấu hiệu tội phạm. Điều này có thể dẫn đến việc người, cơ quan, tổ chức tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố và cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận hoặc giữa cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận các địa phương có cách hiểu khác nhau dẫn đến ảnh hưởng hiệu quả công tác tiếp nhận, giải quyết thông tin về tội phạm, xảy ra tình trạng khiếu nại kéo dài hoặc bỏ lọt thông tin tội phạm.

Quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự một số quốc gia

Bộ luật Tố tụng hình sự Trung Quốc

Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự Trung Quốc quy định “Mọi tổ chức, cá nhân khi phát hiện ra tình tiết tội phạm, nghi phạm có quyền, nghĩa vụ trình báo vụ án hoặc cung cấp thông tin cho cơ quan Công an, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân. Nạn nhân có quyền báo cáo về tội xâm phạm cá nhân của họ quyền tài sản hoặc tố giác người bị tình nghi phạm tội đó với cơ quan công an, viện kiểm sát nhân dân, tòa án nhân dân. Cơ quan công an, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân thụ lý mọi tin báo, tố giác, tin báo. Nếu vụ việc không thuộc thẩm quyền của mình thì chuyển vụ việc đến cơ quan có thẩm quyền và thông báo cho người đã tố cáo, tố cáo hoặc cung cấp thông tin. Trường hợp không thuộc thẩm quyền mà cần áp dụng biện pháp khẩn cấp thì phải thực hiện các biện pháp khẩn cấp trước khi chuyển vụ việc đến cơ quan có thẩm quyền.”

Qua nghiên cứu cho thấy Bộ luật Tố tụng hình sự Trung Quốc không đưa khái niệm cụ thể phân loại các nguồn tin tội phạm thành tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Nhưng quy định rõ thông tin cung cấp là thông tin về tình tiết tội phạm hoặc người bị nghi thực hiện tội phạm thì có quyền và nghĩa vụ báo cáo. Việc quy định tình tiết tội phạm là rõ và cụ thể nói lên thông tin đó đó phải là thông tin về toàn bộ hành vi cũng có thể là một phần hành vi bị phát hiện. Nhưng các thông tin đó phải là tình tiết được của tội phạm hoặc người bị nghi thực hiện tội phạm trong luật hình sự.

Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga

Theo khoản 43 điều 5 giải thích từ ngữ trong Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga thì thông tin về tội phạm gồm: tự thú, đầu thú hoặc trình báo nêu rõ về tội phạm. Điều 141 quy định trình báo thông tin tội phạm thì có thể được thực hiện bằng lời nói hoặc bằng văn bản. Theo điều 143 quy định cung cấp thông tin tội phạm là cung cấp thông tin về tội phạm đã được thực hiện hoặc chuẩn bị thực hiện.

Như vậy, Bộ luật Tố tụng hình sự liên bang Nga quy định thông tin tội phạm đối với nguồn cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền ngoài việc người phạm tội tự thú, đầu thú khai về hành vi phạm tội của mình thì thông tin trình báo không phân biệt từ các nhân, tổ chức nhưng phải có nội dung nêu rõ về hành vi phạm tội, tội phạm bị phát hiện trình báo. 

2. Cần quy định rõ “thông tin có dấu hiệu tội phạm” trong Bộ luật Hình sự

Theo Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi,bổ sung năm 2017) “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự” .

Theo khái niệm này thì tội phạm gồm 4 yếu tố cấu thành. Thứ nhất, về hành vi khách quan thì tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; hành vi có thể bằng hành động hoặc không hành động. Nếu hành vi khách quan là không hành động thì chủ thể không hành động phải trong hoàn cảnh pháp lý luật quy định phải hành động nhưng đã không hành động. Thứ hai, về chủ thể tội phạm phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại. Năng lực trách nhiệm hình sự theo quy bộ luật hình sự phải đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và theo Điều 21 Bộ luật Hình sự năm 2015, không mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Thứ ba, về khách thể là xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Thứ tư, về mặt chủ quan tội phạm được thực hiện bởi lỗi cố ý hoặc vô ý. Như vậy, một hành vi là hành vi phạm tội khi phải đủ các yếu tố cấu thành tội phạm trên. Nhưng các yếu tố cấu thành thì chỉ có hành vi khách quan tội phạm là biểu hiện ra bên ngoài để người khác có thể biết được. Còn hành vi khách quan đó có phải là hành vi phạm tội hay không thì phải tiến hành xác minh, điều tra mới xác định được.

Như vậy, một hành vi là hành vi tội phạm khi có đầy đủ 4 yếu tố cấu thành tội phạm. Nhưng tội phạm thì chỉ có hành vi khách quan là hành vi được biểu hiện ra bên ngoài. Vì vậy có thể thấy hành vi có dấu hiệu tội phạm trước tiên đó phải là hành vi và hành vi đó là hành vi được mô tả trong một điều luật hoặc nhiều điều luật được quy định trong phần tội phạm cụ thể của Bộ luật Hình sự hiện hành.

Có thể thấy tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố phải là thông tin có thật về tội phạm đã, đang hoặc có căn cứ để dự báo sẽ xảy ra. Dấu hiệu tội phạm trong tin báo phải là những thông tin biểu hiện ra bên ngoài của hành vi phạm tội thì mới có thể bị phát hiện. Do đó, dấu hiệu tội phạm phải bắt nguồn từ hành vi phạm tội được chủ thể phát hiện và đối chiếu với các tội phạm quy định trong luật quy định về tội phạm tức Bộ luật Hình sự hiện hành. Nếu thông tin tương đồng về hành vi quy định trong luật thì thông tin đó mới có dấu hiệu về tội phạm. Trên thực tế, nếu dấu hiệu tội phạm được đánh giá theo chủ quan chủ thể tố giác thì giúp cơ quan có thẩm quyền thu thập được nhiều thông tin để phát hiện tội phạm. Nhưng bên cạnh đó, lượng tố giác tội phạm quá nhiều dẫn đến việc cơ quan có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết phải sàng lọc, xác minh sẽ dẫn đến ảnh hướng chất lượng công tác tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố. Nhưng ngược lại nếu việc đánh giá dấu hiệu tội phạm phụ thuộc vào cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận cũng dễ dẫn đến tình trạng chủ quan bỏ lọt tội phạm.

Theo tác giả bài viết, cần quy định rõ “thông tin có dấu hiệu tội phạm là thông tin về hành vi giống hành vi mô tả trong ít nhất một điều luật quy định về tội phạm cụ thể" trong Bộ luật Hình sự hiện hành. Điều này có ý nghĩa giúp việc tố giác tập trung, có chọn lọc thể hiện rõ hành vi khách quan để cơ quan có thẩm quyền đánh giá việc tố giác, báo tin tội phạm và kiến nghị khởi tố có đúng hay không. Khi xác định có hành vi khách quan của tội phạm thì các yếu tố cấu thành còn lại cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết phải điều tra làm rõ.

Trung tá Nguyễn Thanh Quang, Công an tỉnh Đồng Nai