Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường của VKSND tỉnh Đắk Nông

Ngày đăng : 08:00, 04/01/2023

(Kiemsat.vn) - Trong những năm qua, công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường của VKSND tỉnh Đắk Nông đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự kịp thời, hiệu quả.

Tỉnh Đắk Nông nằm ở phía Tây Nam vùng Tây Nguyên; có quốc lộ 14 đi Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Đông Nam Bộ, quốc lộ 28 đến các tỉnh duyên hải miền Trung và có 02 cửa khẩu quốc gia là Bu Prăng, Đắk Peur thông với tỉnh Mondulkiri, Kratie của Campuchia… Do có địa giới hành chính rộng, hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn, dân cư đa sắc tộc, đa tôn giáo, vì vậy các thế lực thù địch luôn lợi dụng để thực hiện các hành vi chống phá, gây rối an ninh trật tự xã hội trên địa bàn tỉnh. Tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, tính chất mức độ nguy hiểm của tội phạm tăng cao, thể hiện ở các loại tội danh đã được khởi tố, như: Giết người; cướp tài sản; hiếp dâm trẻ em; mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy… Trong thời gian tới, tốc độ đô thị hóa, quy mô dân số của tỉnh, dân di cư từ các tỉnh khác đến Đắk Nông sẽ tiếp tục tăng làm phát sinh nhiều vấn đề phức tạp về an ninh, trật tự. Hoạt động của các loại tội phạm có xu hướng gia tăng, nhất là tội phạm sử dụng công nghệ cao, “tín dụng đen”, tội phạm sử dụng “vũ khí nóng”, tội phạm hoạt động băng, nhóm,... 

Để chủ động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, kiềm chế và làm giảm tội phạm và vi phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới, các cơ quan bảo vệ pháp luật tiếp tục chủ động tham mưu cho cấp ủy chính quyền địa phương về biện pháp tổ chức thực hiện có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Ban Chỉ đạo 138, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong công tác phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật, đẩy mạnh tấn công trấn áp tội phạm, chấp hành nghiêm quy định của pháp luật về công tác điều tra, truy tố, xử lý tội phạm, trong đó công tác đấu tranh trực diện với tội phạm qua công tác khám nghiệm hiện trường là trách nhiệm chính thuộc về Cơ quan điều tra (CQĐT) và Viện kiểm sát nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Nông.

1. Thực tiễn công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường của Viện kiểm sát nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Nông

1.1. Những kết quả đạt được

Từ năm 2019 đến 06 tháng đầu năm 2021, tổng số các cuộc khám nghiệm hiện trường do CQĐT, cơ quan được giao tiến hành một số nhiệm vụ điều tra tiến hành 2.590 cuộc; Viện kiểm sát cùng cấp tham gia khám nghiệm là 2.575 cuộc (chiếm 99,4%). Cụ thể, năm 2019 có 724 cuộc khám nghiệm hiện trường, kiểm sát khám nghiệm hiện trường 716 cuộc (chiếm 98,89%); năm 2020 có 771 cuộc khám nghiệm hiện trường, kiểm sát khám nghiệm hiện trường 771 cuộc (100%); 06 tháng đầu năm 2021 có 424 cuộc khám nghiệm hiện trường, kiểm sát khám nghiệm hiện trường 424 cuộc (100%). Tổng số vụ được Viện kiểm sát cùng cấp tham gia khám nghiệm là 2.575 cuộc, trong đó lãnh đạo Viện, lãnh đạo cấp phòng tham gia 354 cuộc (13,75%); Kiểm sát viên tham gia kiểm sát 2.221 cuộc (86,25%).

 Nhìn chung, trong các cuộc khám nghiệm hiện trường, Kiểm sát viên đã chủ động nắm tình hình, yêu cầu Điều tra viên, Cán bộ điều tra thông báo nội dung, diễn biến ban đầu của sự việc để tham gia ý kiến vào việc chuẩn bị khám nghiệm; chủ động yêu cầu Điều tra viên, Cán bộ điều tra tiến hành khám nghiệm hiện trường, bảo đảm đúng quy định tại Điều 201 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2021 (BLTTHS năm 2015).

Trong quá trình khám nghiệm, Kiểm sát viên đã phối hợp với Điều tra viên, Cán bộ điều tra để thống nhất nội dung, kế hoạch, trình tự khám nghiệm hiện trường, bảo đảm khách quan, toàn diện và đúng pháp luật; kiểm sát thành phần tiến hành, tham gia việc khám nghiệm hiện trường bảo đảm đúng thẩm quyền, thành phần theo quy định của BLTTHS năm 2015 và các văn bản pháp luật khác có liên quan, kịp thời đề ra các yêu cầu cho Điều tra viên, người có chuyên môn về kỹ thuật hình sự, pháp y thu thập, làm rõ các dấu vết để phục vụ công tác truy nguyên hình sự; kiểm sát chặt chẽ các hoạt động khám nghiệm. Yêu cầu Điều tra viên, Cán bộ điều tra, người có chuyên môn thực hiện đúng trình tự, thủ tục khám nghiệm; vẽ sơ đồ, chụp ảnh, đo đạc và mô tả thực trạng hiện trường theo quy định pháp luật; ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng, cụ thể các tình tiết, đặc điểm, vị trí của dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu quan trọng tại hiện trường để có cơ sở xem xét đối chiếu, kiểm tra với biên bản và sơ đồ khám nghiệm hiện trường.

Kiểm sát viên đã cùng Điều tra viên, Cán bộ điều tra phân tích, đánh giá đúng kết quả khám nghiệm hiện trường; xem xét quyết định kết thúc khám nghiệm hoặc tiếp tục bảo vệ hiện trường để có thể khám nghiệm bổ sung, khám nghiệm lại; xác định rõ những dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử cần được trưng cầu giám định, nội dung cần trưng cầu để phục vụ cho công tác điều tra, giải quyết vụ án.

Ví dụ: Khoảng 08 giờ ngày 04/5/2020, Viện kiểm sát huyện A tiếp nhận thông tin vụ tai nạn giao thông xảy ra trên Quốc lộ 28, thuộc địa phận xã Đắk Son. Được sự chỉ đạo của lãnh đạo Viện, Kiểm sát viên đã nhanh chóng đến hiện trường, kịp thời nắm bắt thông tin vụ việc. Tại hiện trường, Điều tra viên dự định tiến hành khám nghiệm theo vụ việc tai nạn giao thông thông thường, tuy nhiên, Kiểm sát viên phát hiện vụ việc có dấu hiệu của tội phạm khác (nhận định có khả năng liên quan đến tội phạm giết người, ngụy tạo thành hiện trường giả) nên đã yêu cầu Điều tra viên dừng khám nghiệm, báo cáo lãnh đạo Viện, lãnh đạo CQĐT để báo cáo lên CQĐT, Viện kiểm sát tỉnh. Ngay sau đó, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh, Viện kiểm sát tỉnh đã cử Điều tra viên, Kiểm sát viên đến hiện trường, trực tiếp tiến hành khám nghiệm, phối hợp với thông tin trinh sát và xác định đây là vụ án giết người, tạo hiện trường giả nên đã nhanh chóng phát hiện và bắt giữ được người thực hiện hành vi phạm tội.

 Bên cạnh đó, công tác phối hợp giữa CQĐT, cơ quan được giao tiến hành một số nhiệm vụ điều tra, cơ quan chuyên môn, cơ quan quản lý nhà nước với Viện kiểm sát cùng cấp trong hoạt động khám nghiệm hiện trường về cơ bản được bảo đảm thực hiện trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mỗi ngành theo quy định của pháp luật. Quá trình khám nghiệm hiện trường, các thành viên Hội đồng khám nghiệm luôn chủ động tham vấn các vấn đề thuộc chuyên môn của mỗi ngành để đánh giá khách quan những nội dung cần làm rõ ngay trong quá trình khám nghiệm cũng như lựa chọn phương pháp, chiến thuật khám nghiệm phù hợp.

1.2. Một số tồn tại, hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác khám nghiệm hiện trường của Viện kiểm sát nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Nông còn những tồn tại, hạn chế nhất định, đó là: Một số vụ việc CQĐT và Viện kiểm sát chưa kịp thời tiến hành các biện pháp bảo vệ hiện trường, tổ chức khám nghiệm nên hiện trường không còn nguyên vẹn; không thu giữ được dấu vết, vật chứng liên quan. Sau khi khám nghiệm không tiến hành lập biên bản, vẽ sơ đồ ngay tại hiện trường, không rà soát, đánh giá kết quả khám nghiệm để xem xét tiến hành khám nghiệm bổ sung, khám nghiệm lại dẫn đến không bảo đảm căn cứ giám định, định giá nên phải tạm đình chỉ giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm; nhận thức của một số Điều tra viên, Kiểm sát viên về khám nghiệm hiện trường trong tố tụng hình sự cũng như kỹ thuật hình sự còn hạn chế; thiếu kỹ năng khám nghiệm và kiểm sát khám nghiệm, chất lượng tác nghiệp chưa đồng đều. Một số trường hợp, chủ thể tiến hành tố tụng nhầm lẫn giữa giới hạn, phạm vi, nội dung của hoạt động khám nghiệm hiện trường (Điều 201 BLTTHS năm 2015) với phạm vi, nội dung của hoạt động thực nghiệm điều tra (Điều 204 BLTTHS năm 2015).

Vẫn còn tình trạng Kiểm sát viên chưa nắm rõ nội dung vụ việc, thiếu kinh nghiệm nên không kịp thời yêu cầu CQĐT thực hiện hoạt động điều tra để thu thập chứng cứ, không chỉ ra được cần khám xét cái gì, thu lượm những gì, bảo quản ra sao, kết thúc cuộc khám nghiệm không nghiên cứu kỹ biên bản khám nghiệm…, dẫn đến trong biên bản khám nghiệm hiện trường không thể hiện được vị trí, khoảng cách giữa các vật chứng, không mô tả đầy đủ các dấu vết có tại hiện trường, vẽ sơ đồ sơ sài, không đúng thực tế… nhưng Kiểm sát viên không phát hiện được để yêu cầu chấn chỉnh kịp thời; cơ chế phối hợp giữa CQĐT, Viện kiểm sát với các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan chuyên môn có lúc chưa bảo đảm yêu cầu, như: Cơ quan điều tra không thông báo cho Viện kiểm sát (theo Điều 201 BLTTHS năm 2015) để Viện kiểm sát cử Kiểm sát viên tham gia khám nghiệm hiện trường; một số vụ khám nghiệm hiện trường liên quan đến lĩnh vực chuyên môn đặc thù, phát sinh tại hiện trường có quan điểm đánh giá khác nhau giữa CQĐT và cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành nhưng chưa được kịp thời giải quyết; có trường hợp Viện kiểm sát cấp huyện chưa chủ động thực hiện nhiệm vụ kiểm sát ban đầu đối với những vụ, việc thuộc thẩm quyền của cấp tỉnh khi Hội đồng khám nghiệm hiện trường của cấp tỉnh chưa kịp đến hiện trường…

2. Giải pháp nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường

Một là, cần nhận thức đúng về vị trí, vai trò của hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát khám nghiệm hiện trường. Xác định công tác khám nghiệm hiện trường và kiểm sát khám nghiệm hiện trường là hoạt động đấu tranh trực diện, công khai bằng lập luận, chứng cứ, mưu trí giữa các chủ thể tiến hành tố tụng với người phạm tội, vì vậy, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên phải tự nghiên cứu học hỏi, nâng cao năng lực trình độ nghiệp vụ, luôn có tinh thần vượt qua thách thức, áp lực thực tế để hoàn thành nhiệm vụ. Mỗi hành vi, quyết định tố tụng của Kiểm sát viên tại hiện trường vụ án hình sự là cơ sở, tiền đề cho việc thực hành quyền công tố trong giai đoạn này. Kiểm sát viên phải chịu trách nhiệm trước lãnh đạo Viện về kết quả kiểm sát khám nghiệm hiện trường, về chứng cứ thu thập được, về các thủ tục tố tụng. Trách nhiệm của lãnh đạo đơn vị là quyết định việc khởi tố, áp dụng biện pháp ngăn chặn cũng như việc xử lý vụ án sau khi có kết quả kiểm sát khám nghiệm hiện trường của Kiểm sát viên.

Hai là, cần phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu Viện kiểm sát các cấp trong hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành. Viện kiểm sát các cấp cần chủ động nghiên cứu, áp dụng các biện pháp để quản lý chặt chẽ công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường theo nguyên tắc tập trung thống nhất, phù hợp với vị trí, trách nhiệm, đáp ứng yêu cầu gắn chỉ đạo thực tiễn với tổng kết nghiệp vụ. Thực tế cho thấy, hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường có chất lượng, hiệu quả hay không phụ thuộc phần lớn vào hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành. Sau khi nắm được thông tin, lãnh đạo Viện cần đánh giá tính chất phức tạp của hiện trường để cử Kiểm sát viên có năng lực phù hợp so với yêu cầu thực tế. Đối với những vụ việc phức tạp, lãnh đạo CQĐT, Viện kiểm sát phải có mặt tại hiện trường, trực tiếp lãnh đạo, chỉ huy công tác khám nghiệm; tôn trọng sự thật khách quan, căn cứ vào tình hình thực tế để đưa ra chủ trương, kế hoạch, không chủ quan định kiến dựa vào kinh nghiệm sẵn có hay phụ thuộc vào khả năng, trình độ của Kiểm sát viên, Cán bộ điều tra.

Ngoài ra, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; chỉ rõ những ưu điểm và hạn chế, đề ra phương hướng, có chế tài xử lý nghiêm đối với Kiểm sát viên chưa làm tròn trách nhiệm.

Ba là, chú trọng công tác tự đào tạo cho đội ngũ Kiểm sát viên, Kiểm tra viên trực tiếp làm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường với phương châm “Học tập, tiếp cận từ thực tiễn” qua những tình huống cụ thể, qua đó, nâng cao các kỹ năng nghiệp vụ, khả năng tư duy, tổng hợp. Kiểm sát viên phải thường xuyên cập nhật, tích lũy kinh nghiệm, trau dồi các kiến thức pháp lý và các tri thức khoa học cần thiết khác, nhất là đối với các tội phạm mới trong các lĩnh vực kinh tế, môi trường, chứng khoán, tội phạm mạng... Trong đó, tập trung hướng tới các kỹ năng nghề nghiệp, thao tác thực tế, nhất là kiến thức về kỹ thuật hình sự thông qua việc trao đổi, thảo luận, thực hành về các vấn đề liên quan đến hoạt động kiểm sát khám nghiệm hiện trường nhằm chia sẻ kinh nghiệm, tổng kết thực tiễn, giải quyết những khó khăn, vướng mắc, bất cập nảy sinh từ thực tiễn; đồng thời, phổ biến, nhân rộng kinh nghiệm trong cơ quan, đơn vị.

Bốn là, tăng cường quan hệ phối hợp liên ngành trên cơ sở thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mỗi ngành và quy chế phối hợp. Kết quả công tác khám nghiệm hiện trường có tầm quan trọng đặc biệt, quyết định các bước điều tra tiếp theo, nhưng để đạt được hiệu quả phục vụ việc đấu tranh phá án thì cần có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các lực lượng: Cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát, Cảnh sát giao thông, Cảnh sát phòng cháy chữa cháy, Cứu hộ - cứu nạn, Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp, Cơ quan kỹ thuật hình sự, pháp y, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Quản lý thị trường… Trong quan hệ phối hợp, cần xác định rõ nhiệm vụ Kiểm sát viên phải làm theo chức năng, tránh khuynh hướng phối hợp một chiều; khắc phục tư tưởng né tránh, không thực hiện đầy đủ quy trình khám nghiệm hiện trường; thu thập chứng cứ, dấu vết qua loa, bỏ sót chứng cứ dẫn đến khó khăn cho việc xử lý vụ án.

Việc phối hợp với CQĐT trong công tác khám nghiệm hiện trường cần lưu ý cả tính chất chỉ đạo - chấp hành và tính chất phối hợp công tác để chủ động xây dựng mối quan hệ này theo hướng tích cực, hiệu quả, đáp ứng tốt nhất các yêu cầu cải cách tư pháp đặt ra. Biện pháp hiệu quả nhất vẫn là tăng cường phối hợp giữa Kiểm sát viên và Điều tra viên ngay trong quá trình tổ chức thực hiện các thao tác khám nghiệm hiện trường (bắt đầu từ công tác bảo vệ hiện trường đến giai đoạn kết thúc khám nghiệm).

Năm là, liên ngành tư pháp Trung ương cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết về vị trí, vai trò, trách nhiệm, quyền hạn cụ thể của từng thành viên và mối quan hệ giữa các thành viên khi tham gia vào hoạt động khám nghiệm hiện trường; về việc thành lập Hội đồng khám nghiệm hiện trường và vị trí, vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của Kiểm sát viên khi tham gia kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường để áp dụng thống nhất trên thực tế.

Tạ Đình Đề, Trần Thị Khánh Trâm