Về xây dựng chế định ly thân trong luật hôn nhân và gia đình

Ngày đăng : 18:00, 29/09/2022

(Kiemsat.vn) - Hiện nay, vấn đề ly thân chưa được pháp luật hôn nhân và gia đình điều chỉnh. Điều này gây ra một số khó khăn liên quan đến tranh chấp về quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con cái, về cấp dưỡng của người không trực tiếp nuôi dưỡng con cái; tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng, quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ, chồng với người thứ ba; vấn đề đại diện của vợ chồng trong thời gian ly thân...

1. Sự cần thiết bổ sung chế định ly thân trong Luật hôn nhân và gia đình

Ly thân là một vấn đề tồn tại thực tế ở nước ta hiện nay, việc điều chỉnh pháp luật về ly thân là cần thiết, bởi lẽ, ly thân dẫn đến nhiều hệ quả pháp lý phức tạp khác nhau. Tuy nhiên, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chưa quy định chế định này. Vì vậy, cần bổ sung chế định này vào pháp luật hôn nhân và gia đình (HNGĐ) tạo điều kiện cho vợ chồng có thời gian cân nhắc kỹ lưỡng trước khi quyết định ly hôn.

Việc điều chỉnh về ly thân trong Luật hôn nhân và gia đình dựa trên những hiện tượng xã hội sau: Sự phát triển của các quan hệ HNGĐ trong điều kiện kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế ở nước ta; các quan điểm về điều chỉnh pháp luật ly thân tại Việt Nam hiện nay; tình trạng thực tế khách quan của ly thân. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, cần thừa nhận sống chung là nghĩa vụ của vợ chồng, do đó nếu muốn chấm dứt nghĩa vụ này, vợ chồng cần tuân theo quy định pháp luật. Trong đời sống vợ chồng, khi có những lý do chính đáng và trong những hoàn cảnh nhất định, vợ, chồng có thể muốn sống riêng và muốn đối phương tôn trọng quyền được sống riêng của mình. Tuy nhiên, nếu chỉ trên cơ sở thỏa thuận của vợ chồng thì có thể không đạt được mục đích sống riêng, do đó quyền sống riêng của một hoặc hai bên sẽ không được thực hiện trên thực tế. Công nhận ly thân sẽ giúp vợ chồng có thêm hướng giải quyết mâu thuẫn và bảo vệ tốt nhất quyền lợi của bên yếu thế. Thực tế hiện nay, ly thân chủ yếu là hiện tượng tự phát do vợ chồng tự thỏa thuận hoặc không có thỏa thuận. Điều này làm cho mâu thuẫn vốn có càng thêm trầm trọng và dễ phát sinh mâu thuẫn mới; bên yếu thế (chủ yếu là phụ nữ và trẻ em) không có căn cứ để được bảo vệ toàn diện. Nếu công nhận ly thân, pháp luật sẽ là công cụ hữu hiệu bảo đảm quyền lợi cho các bên đương sự, khi vợ chồng thỏa thuận với nhau về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên khi ly thân thì cũng không được trái với nguyên tắc cơ bản của chế định này.

Thứ hai, công nhận ly thân giúp hệ thống pháp luật Việt Nam được toàn diện, đồng bộ hơn. Mặc dù, thuật ngữ ly thân xuất hiện nhiều trong các bản án, quyết định về HNGĐ của Tòa án, trong các văn bản trao đổi hoặc tổng kết của các cơ quan trung ương hoặc liên ngành trung ương, nhưng lại chưa được ghi nhận là một tình trạng pháp lý. Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định Tòa án không được từ chối thụ lý đơn khởi kiện của đương sự vì lý do pháp luật không quy định (khi đó Thẩm phán phải vận dụng tập quán, áp dụng tương tự pháp luật dân sự, nguyên tắc...) để giải quyết vụ việc. Tuy nhiên, khi áp dụng quy định này, nếu pháp luật không điều chỉnh về ly thân sẽ làm phát sinh hiện tượng xét xử không thống nhất giữa Tòa án các địa phương, có thể xảy ra việc cùng một tình tiết, nội dung vụ án về ly thân nhưng các Tòa án xét xử không thống nhất khi giải quyết ly hôn.

Thứ ba, quy định ly thân góp phần làm giảm tình trạng ly hôn. Hiện nay, với chủ trương mở cửa, giao lưu văn hóa - kinh tế giữa các quốc gia, văn hóa truyền thống của Việt Nam ít nhiều bị ảnh hưởng. Vì vậy, nếu chỉ quy định cách giải quyết mâu thuẫn vợ chồng duy nhất là ly hôn thì số lượng vụ việc ly hôn sẽ gia tăng. Quy định ly thân chính là một cách giải quyết mâu thuẫn hiệu quả, giúp làm giảm tình trạng ly hôn đang có chiều hướng gia tăng, ổn định quan hệ gia đình, xã hội.

Thứ tư, quy định ly thân làm minh bạch hóa các giao dịch dân sự của vợ hoặc chồng với bên thứ ba, ngăn chặn việc một bên lợi dụng tình trạng này để hoạt động giao dịch với bên thứ ba, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bên kia, của con cái hoặc các thành viên khác trong gia đình khi vợ chồng ly thân. Theo đó, tình trạng giao dịch bất hợp pháp cũng giảm thiểu hoặc bị ngăn chặn ngay từ đầu, góp phần ổn định các quan hệ kinh doanh, thương mại. Khi ly thân, tình trạng kinh tế của vợ chồng gần như tách biệt, do đó quy định về ly thân còn giúp cho vợ chồng tránh được phát sinh mâu thuẫn mới về kinh tế, tài sản trong giai đoạn này.

Thứ năm, quy định về ly thân tạo cơ sở pháp lý rõ ràng đối với vợ chồng trong việc thực hiện quyền của cha mẹ đối với con chung nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của con chung khi vợ chồng sống riêng. Xuất phát từ bản chất của ly thân là giai đoạn diễn ra khi vợ chồng mâu thuẫn sâu sắc, do đó, quyền lợi của con chung ít nhiều bị ảnh hưởng. Thực tế xảy ra nhiều trường hợp tranh giành quyền trực tiếp nuôi con, tác động xấu lên tâm lý và sức khỏe con cái. Vì vậy, quy định pháp luật về ly thân là cần thiết để Tòa án giải quyết tranh chấp về con chung trên cơ sở đảm bảo quyền lợi chính đáng của con.

Ngoài ra, quy định ly thân giúp xác định rõ trách nhiệm của mỗi bên vợ chồng khi sống riêng đối với gia đình, con chung và người thứ ba, tạo cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp phát sinh khi vợ chồng sống ly thân. Khi ly thân, vợ chồng không chỉ đứng trước khó khăn là phải giải quyết mâu thuẫn của vợ chồng trước đó, mà còn phải đối mặt với những tranh chấp mới có thể phát sinh. Do đó, pháp luật cần dự liệu những tranh chấp có thể phát sinh khi vợ chồng ly thân, từ đó xác định rõ quyền, nghĩa vụ mỗi bên, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của con chung, bên thứ ba và xã hội.

2. Một số nội dung cần quy định về ly thân trong Luật hôn nhân và gia đình

- Về quyền yêu cầu ly thân:

Vợ chồng có thể quyết định ly thân bằng cách thức nộp đơn yêu cầu Tòa án công nhận thuận tình ly thân. Nếu không muốn qua con đường tố tụng, vợ chồng cần lập văn bản có công chứng nêu rõ việc hai bên tự nguyện và mong muốn ly thân. Thời điểm có hiệu lực của việc ly thân do vợ chồng thỏa thuận và được ghi trong văn bản; nếu trong văn bản không xác định thì thời điểm này được tính từ ngày lập văn bản. Điều này nhằm đảm bảo tính riêng tư trong quan hệ vợ chồng, nhà nước không can thiệp vào quan hệ dân sự khi không có yêu cầu. Khi vợ chồng xảy ra mâu thuẫn (ví dụ khi vợ chồng không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ như thỏa thuận ban đầu) thì vẫn có thể khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu giải quyết; tuy nhiên, trường hợp này vợ chồng phải có nghĩa vụ chứng minh rằng họ đã ly thân trên thực tế.

Trường hợp vợ hoặc chồng đơn phương ly thân xảy ra khi một bên muốn ly thân còn bên kia không muốn (hoặc không thể) ly thân. Lúc này, vợ chồng không thể thỏa thuận được quyền và nghĩa vụ với nhau trong thời gian ly thân, có tranh chấp nên cần Tòa án đóng vai trò như “trọng tài” phân xử. Theo đó, chỉ xảy ra đơn phương ly thân khi vợ (chồng) khởi kiện vụ án ly thân ra Tòa án. Bởi bản chất của đơn phương ly thân là vợ chồng có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ và sẽ không thể đi đến quyết định nếu không có Tòa án giải quyết. 

- Về hệ quả pháp lý của ly thân:

+ Về quan hệ nhân thân khi vợ chồng ly thân:

Khi ly thân, vợ chồng chỉ chấm dứt nghĩa vụ sống chung mà không chấm dứt quan hệ vợ chồng. Theo đó, vợ chồng phải tuân thủ quy định của Luật HNGĐ năm 2014 về nghĩa vụ chung thủy và chế độ một vợ một chồng. Trên thực tế, rất nhiều trường hợp vợ, chồng chung sống như vợ chồng với người khác trong giai đoạn ly thân. Vì vậy, để không làm sai lệch và mất đi ý nghĩa của ly thân, pháp luật cần nghiêm cấm hành vi ngoại tình hoặc chung sống như vợ chồng với người khác làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình trạng hôn nhân khi ly thân. Nếu một trong hai bên cố tình vi phạm nghĩa vụ này thì được xem là một trong các căn cứ lỗi cho phép ly hôn khi vợ chồng đang trong giai đoạn ly thân, đồng thời là căn cứ để xem xét đến vấn đề tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.

Tòa án cũng cần quy định những nghĩa vụ tối thiểu về quan tâm, giúp đỡ nhau của vợ chồng khi ly thân. Đặc biệt, vợ chồng có nghĩa vụ cấp dưỡng cho đối phương nếu họ đang trong tình trạng khó khăn về kinh tế, không thể tự trang trải cuộc sống, điều này dựa trên nền tảng là nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và trẻ em, cũng là yếu tố quan trọng giúp vợ chồng hàn gắn tình cảm.

+ Về quan hệ tài sản giữa vợ và chồng khi ly thân:

Nếu vợ chồng thiết lập chế độ tài sản theo thỏa thuận thì sẽ thực hiện theo thỏa thuận đó. Các thỏa thuận này phải đảm bảo các nguyên tắc chung của luật dân sự, không xâm hại đến quyền, lợi ích chính đáng của bên thứ ba trong giao dịch dân sự; đảm bảo vợ chồng hoàn toàn tự nguyện khi thiết lập thỏa thuận (không bị lừa dối, cưỡng ép, đe dọa, nhầm lẫn). Nếu các thỏa thuận này vi phạm những điều trên và có yêu cầu Tòa án giải quyết, thì Tòa án có thể tuyên điều khoản vô hiệu. Nếu vợ chồng không có thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được về tài sản mà có yêu cầu thì Tòa án áp dụng quy định về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để giải quyết. Cụ thể, trong trường hợp vợ chồng yêu cầu về chia tài sản chung có trước ngày việc ly thân có hiệu lực thì Tòa án giải quyết theo các nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn.

Kể từ ngày việc ly thân có hiệu lực, vợ chồng có quyền sở hữu riêng đối với những tài sản mà mỗi bên có được và chịu trách nhiệm riêng về những nghĩa vụ mà mình xác lập, thực hiện; trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Trong trường hợp vợ chồng không có thỏa thuận khác thì những tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ hoặc chồng trong thời kỳ hôn nhân; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng thuộc sở hữu riêng của mỗi người. Phần tài sản chung chưa chia; hoa lợi, lợi tức của những tài sản này và những tài sản mà vợ chồng được tặng cho chung, được thừa kế chung vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng.

+ Về quyền của cha mẹ và con khi vợ chồng ly thân:

Khi ly thân, cha mẹ vẫn có quyền và nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mà mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình. Theo đó, dù chấm dứt nghĩa vụ sống chung, vợ chồng vẫn có nghĩa vụ ngang nhau trong việc chăm sóc, giáo dục con cái. Vợ chồng có thể thỏa thuận về việc ai là người sống chung với con; cách thức thăm nom, giáo dục con; con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con. Nếu vợ chồng không thể tự thỏa thuận hoặc thỏa thuận được nhưng xâm phạm quyền, lợi ích chính đáng của con thì Tòa án quyết định vấn đề này.

Để đồng bộ với chế định ly hôn, pháp luật cũng cần quy định khi vợ chồng ly thân, con chưa thành niên từ đủ 07 tuổi trở lên có quyền nêu ý kiến về mong muốn sống chung với bố hay mẹ và Thẩm phán có trách nhiệm xem xét ý kiến này. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở, nhưng cũng không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc chăm sóc, nuôi dưỡng con; nếu xảy ra thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trong thời gian ly thân, người không trực tiếp nuôi dưỡng con chung chưa thành niên, con đã thành niên mà mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình phải có nghĩa vụ cấp dưỡng, đóng góp công sức nuôi dạy con cái, về mức cấp dưỡng, phụ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế của mỗi gia đình. Thẩm phán cần vận dụng linh hoạt pháp luật, tùy từng vụ việc cụ thể và sự thỏa thuận của các bên để quyết định về số tiền cấp dưỡng, tuy nhiên, khoản tiền cấp dưỡng này cần đủ để đảm bảo mức sống tối thiểu của con và không thấp hơn so với trước khi vợ chồng ly thân. Khi bên có nghĩa vụ cấp dưỡng vi phạm nghĩa vụ, bên còn lại có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngược lại, nếu tình hình kinh tế của vợ chồng thay đổi, họ có thể thỏa thuận lại về mức cấp dưỡng và thỏa thuận này cần được lập thành văn bản.

- Thời gian ly thân:

Theo tác giả, không nên quy định thời gian tối thiểu và tối đa cho việc ly thân. Việc này phụ thuộc vào quyết định của vợ chồng, có thể sau thời gian ngắn ly thân, họ tìm được cách giải quyết mâu thuẫn và quay trở về bên nhau sống hòa thuận; nhưng cũng có vợ chồng có nguyện vọng ly thân trong thời gian dài và họ cho rằng điều đó tốt cho tình trạng hôn nhân của họ. Bên cạnh đó, cũng cần nhận thức rõ ràng rằng ly hôn không bao giờ tự động xảy ra sau ly thân. Tuy nhiên, nếu có yêu cầu ly hôn sau ly thân thì nên quy định ly thân là một căn cứ để Tòa án xem xét cho ly hôn. Theo tác giả, 02 năm ly thân liên tục là thời gian hợp lý để Tòa án coi đây là căn cứ cho rằng cuộc sống hôn nhân mâu thuẫn trầm trọng, không thể tiếp tục sống chung...

- Về nhận nuôi con nuôi trong thời gian ly thân:

Khoản 3 Điều 8 Luật nuôi con nuôi năm 2010 quy định nếu vợ hoặc chồng muốn nhận con nuôi thì phải có sự đồng ý của người còn lại, đứa trẻ đó sẽ là con nuôi của cả vợ và chồng, mà không thể làm con nuôi của riêng vợ hoặc chồng. Tuy nhiên, nếu vợ chồng ly thân nghĩa là giữa họ đang thiết lập tình trạng không cùng chung sống, tài sản riêng..., thì nếu một trong hai bên có nhu cầu muốn nhận nuôi con nuôi sẽ giải quyết thế nào? Theo tác giả, khoản 3 Điều 8 Luật nuôi con nuôi năm 2010 vẫn phù hợp với trường hợp vợ chồng ly thân. Bởi lẽ, ly thân là vợ chồng không còn chung sống, nhưng họ vẫn là vợ chồng trước pháp luật. Nhận nuôi con nuôi là vấn đề cần sự đồng thuận của vợ chồng. Nếu cho phép một bên được quyền nhận nuôi con nuôi mà không cần sự đồng ý của người kia trong thời gian ly thân sẽ dẫn đến phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Hơn nữa, nếu pháp luật cho phép một bên được nhận nuôi con nuôi trong khi vợ chồng ly thân sẽ cản trở việc vợ chồng quay lại với nhau. Đặc biệt là trong trường hợp vợ chồng chấm dứt ly thân, vấn đề nuôi con nuôi sẽ rất phức tạp nếu như vợ (chồng) vẫn không đồng ý nhận nuôi con nuôi mà chồng (vợ) mình đã nhận nuôi trước đó. Do đó, trong thời gian ly thân, vợ chồng vẫn cần sự thống nhất ý chí trong việc nhận nuôi con nuôi; nếu vợ (chồng) có lý do chính đáng muốn nhận nuôi con nuôi mà chồng (vợ) vẫn không đồng ý thì vợ (chồng) có quyền nộp đơn yêu cầu Tòa án giải quyết, trong đơn cần giải thích rõ lý do muốn nhận nuôi con nuôi.

Ngoài ra, trường hợp trong thời gian ly thân, cả vợ và chồng đều muốn nhận nuôi con nuôi thì xử lý như thế nào? Theo tác giả, điều này là không thực tế bởi rất hy hữu trường hợp vợ chồng thống nhất được nguyện vọng nhận nuôi con nuôi khi đang không cùng chung sống. Tuy nhiên, nếu xảy ra trường hợp vợ chồng thống nhất được ý chí nhận nuôi con nuôi khi đang trong giai đoạn ly thân thì pháp luật cũng không nên chấp nhận. Bởi lẽ, ly thân là giai đoạn mà quan hệ vợ chồng đang trong tình trạng mẫu thuẫn, bất hòa nên việc cho phép nhận nuôi con nuôi sẽ không đảm bảo lợi ích của trẻ được nhận nuôi, đứa trẻ sẽ không được hưởng sự chăm sóc, giáo dục, yêu thương trọn vẹn giữa bố và mẹ...

- Chấm dứt ly thân: Chấm dứt ly thân xảy ra theo một trong hai trường hợp: (1) Vợ chồng giải quyết được mâu thuẫn và quay trở lại bên nhau; (2) Vợ chồng quyết định ly hôn.

Đối với trường hợp vợ chồng quay trở lại sống chung với nhau: Nếu trước đó vợ chồng xác lập ly thân qua Tòa án thì vợ chồng nộp đơn yêu cầu chấm dứt ly thân lên Tòa án đã ra bản án, quyết định ly thân. Tòa án xem xét và quyết định dựa trên tinh thần khuyến khích vợ chồng hàn gắn, quay trở lại chung sống hòa thuận. Đối với trường hợp trước đó vợ chồng ly thân mà không ra Tòa án thì vợ chồng cần xác lập thỏa thuận bằng văn bản có công chứng nêu rõ việc tự nguyện chấm dứt ly thân. Khi ly thân chấm dứt, chế độ tài sản trong ly thân vẫn có hiệu lực, trừ khi vợ chồng có thỏa thuận khác.

Đối với trường hợp vợ chồng cải biến từ ly thân thành ly hôn: Trong thời gian ly thân, vợ chồng có thể nộp đơn xin ly hôn bất cứ thời điểm nào và Tòa án xét thấy có căn cứ cho rằng đời sống chung của họ không thể tiếp tục. Tòa án có thể căn cứ vào thời gian ly thân như đã nêu ở trên (02 năm) để làm căn cứ cho ly hôn (nếu vợ chồng không sống chung liên tục từ 02 năm trở lên thì Tòa án có căn cứ cho rằng đời sống hôn nhân đã trầm trọng), cần xem xét kỹ lưỡng về vấn đề tài sản để tránh xảy ra tranh chấp với bên thứ ba trong giao dịch dân sự mà vợ, chồng đã thiết lập trong thời gian ly thân. Quyền, nghĩa vụ của cha mẹ đối với con trong thời gian ly thân vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp có căn cứ về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng cho con khi ly hôn./.

Ths. Trần Hạnh Thảo